–“PHẬT ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh vũ trụ. BỒ TÁT có quyền chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng.″

Chương I: Những Hoá Thân Của Đức Di Lạc

15 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 71891)
Chương I: Những Hoá Thân Của Đức Di Lạc
bonsu_r
Tượng Đức Bổn Sư tại
thiền viện Pháp Tạng.
Theo lời thọ ký của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật trước khi nhập Niết Bàn, sau này vào thời Mạt Pháp, Bồ Tát Di Lạc vì Đại Bi nguyện mà Hạ Sanh xuống thế gian, tận độ chúng sanh. Ngài sẽ thành Chánh Qủa, là một vị Phật nối tiếp Đức Phật Thích Ca, chỉnh trang Phật Đạo, giữ gìn Chánh Pháp của Như Lai Phật trường tồn được 5000 năm.

Chiếu theo Phật Lịch, nay đã hơn 2500 năm, được ghi nhận ba lần Đức Di Lạc Hạ Lai khai đạo tại Ta Bà thế giới này, được số đông người tu theo Phật biết tiếng. Ba lần lai trần nữa nhưng Ngài im lặng nên không mấy ai biết đến. Một lần làm Quốc Sư, một lần làm vua đều ở nước Tàu, một lần dạy đạo ở Tây Tạng sẽ được trình bày chương sau.

• Phó Đại Sĩ. Có một kiếp Bồ Tát Di Lạc lai trần ở nước Trung Hoa, Ngài lấy tên Phó Đại Sĩ đến lúc nhập diệt, người thế gian mới được biết Phó Đại Sĩ là hóa thân của Đức Di Lạc.

• Bố Đại Hòa Thượng. Đến đời nhà Lương cũng ở nước Tàu, Bồ Tát Di Lạc lai trần lấy tên Bố Đại Hòa Thượng. Thân hình Ngài khác thường hơn người thế tục, trán thì nhăn, bụng thì lớn và thân người mập mạp. Đến lúc nhập diệt, Ngài ngồi thiền tọa, không tật bệnh gì cả. Lúc đó người thế gian mới được biết Bố Đại Hòa Thượng là Bồ Tát Di Lạc hiện tướng ở Ta Bà thế giới này.

bodaihoathuong
Bố Đại Hoà Thượng
• Long Thọ. Lại một kiếp khác, khi Bồ Tát Di Lạc lai trần ở Ấn Độ, Ngài lấy tên Long Thọ, đến lúc ra đi người thế gian mới được biết Ngài Long Thọ chính là hóa thân Đức Di Lạc. Mỗi lần thị hiện ở cõi ta bà thế giới này, Ngài đều vì bổn nguyện làm những việc lợi ích cho chúng sinh.

Sau thế chiến thứ hai cho đến bây giờ, Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni đều cho rằng thời này chưa đến lúc Đức Di Lạc xuất thế. Ngài còn ở trên cung trời Đâu Suất, nhiều kiếp nữa mới thị hiện ra đời để tiếp nối Chánh Pháp của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Trái lại trong lúc đó biết bao lời tiên tri của các đạo giáo như Cơ Đốc Giáo, Phật Giáo, Cao Đài Giáo, Phật Thầy Tây An, Phật Giáo Hòa Hảo lại có cả nhà Bác Học cùng các bậc Dị Nhân ở miền Nam nước Việt Nam cùng các kinh sấm cho biết, Đức Di Lạc đã Hạ Lai tại Việt Nam nhưng còn ẩn.

Họ hoàn toàn tin vững vàng rằng Đức Di Lạc đã ra đời tại Việt Nam. Thực tại vẫn yên lặng, ngày tháng vẫn trôi, nhưng không ai nghe, không ai thấy, những hiện tượng kỳ lạ của kinh sấm xuất hiện để diện kiến Ngài. Dần dần khiến nhiều người bâng khuâng, lo lắng sanh ra nghi ngờ. Theo Đại Tập Kinh, sau khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, 2500 năm sau là thời Mạt Pháp, Đức Di Lạc Hạ Sanh. Nay đã đến 2538 năm Phật Lịch mà vẫn chưa có Đức Di Lạc ra đời, càng làm cho nhiều bậc học giả cùng những bậc tín tâm tu Phật hoài nghi hơn nữa.

• Đức Di Lạc chính là Khổng Minh. Gần ngày nhập Bát Đại Niết Bàn, Ngài viếng thăm Đà Lạt và mua một tượng Khổng Minh đem về Nha Trang, Ngài ghi chú dưới tượng câu:

khongminhweb
Tượng Khổng Minh,
Ngài mua ở Đà Lạt.
“Đời là BIỂN KHỔ, không mấy ai tránh được cái khổ của đời.
Còn vũ trụ không bao giờ giúp ta, chỉ có tâm ta mới cứu ta mà thôi.
Kẻ VÔ TÂM là độc ác nhất”
–T.V.


Đường đạo Ngài xác định thật rõ ràng: Bậc tu không thể nương tựa chỉ biết cầu vái van xin mà phải chính mình tinh tấn sửa đổi tánh tình cho thật tốt, vạn pháp diễn cảnh phải chịu đựng và tự hóa giải cho sạch nghiệp. Sau khi chánh giác, bỗng tự phát lòng đại bi thương chúng sinh như thương thân mạng mình, không thể ngồi yên thấy chúng sinh đang trầm luân trong biển lửa.

Một hôm Ngài dạy tôi nghe như vầy: Tôi với ông nhiều kiếp luôn ở bên nhau, có một kiếp Tôi làm Quốc Sư ở bên Tàu, thấy người dân bị rên siết trong đau khổ không thể làm ngơ được, Tôi phải đem trí tuệ làm phương thức cứu đời. Ngày nay tu hành tuy không có binh hùng tướng mạnh, không có quyền hành, một người lính canh cũng không có, lại không có một loại vũ khí thô sơ nào ở bên cạnh, nhưng với sự quyết chí tu hành, Tôi lấy Phật Lực đầy quyền uy gấp vạn lần hơn thời trước cứu đời rất hữu hiệu.

Rồi Ngài cho vẽ tượng Quan Công treo trong Tịnh Thất của Ngài. Khi vào phòng, tôi thấy hình Quan Công treo ở tư thế hộ giá, bỗng nhiên tôi trực giác nhớ tiền kiếp của tôi và của Đức Ngài. Tôi ngạc nhiên khi biết Ngài là Khổng Minh đời nhà Hán làm Quốc Sư thời Lưu Bị còn được gọi Lưu Huyền Đức. Lạ thật! rất nhiều ngạc nhiên đối với tôi khi nhìn được từ quá khứ xa xôi vào khoảng năm 191 Lưu Bị-Quan Công-Trương Phi sau khi bàn luận, hẹn nhau hôm sau kết nghĩa trong vườn đào phía sau nhà Trương Phi, bày lễ vật cáo tế Thiên Địa.

Lúc đó Khổng Minh chính là hóa thân của Bồ Tát Di Lạc. Dưới mắt Thiền Sư, nhìn biết tình nghĩa đã trở nên nhân duyên cao dày, tan hợp, hợp tan với bao phong ba, nay ở bên nhau trong thời đại nguyên tử của thế kỷ 20 này! Hai câu thơ của Đức Tịnh Vương hóa thân Đức Di Lạc cũng là Khổng Minh của thuở trước nhắn nhủ sự luân hồi quay tròn không dừng của kiếp người, có tình nghĩa vẫn tái hợp!

tho-tuthuo


–Tịnh Vương

Từ ngàn xưa nay là thế kỷ 20, trình độ, sự tiến bộ của văn minh nhân loại, Ngài Khổng Minh nay lại với cái tên Tịnh Vương Nhất Tôn cũng chuyển mình theo sự tiến bộ ấy và Ngài đã thành công trên khoa học và trên cả những chính trị gia thế giới mới là vi diệu. Ngài thị hiện ở cõi Ta Bà thế giới này, trình độ học vấn chỉ mới lớp ba, chưa hết bậc tiểu học mà biết bao nhà khoa học gia với bằng cấp tiến sĩ, bác học đã phát minh bao điều dù cho tối tân cũng không qua nổi sự chỉ đạo kín nhiệm của Ngài từ xa rất xa. Kinh sách Ngài nhập Chánh Định Tam Muội ghi chép lại những nhân vật trình độ Đại học đọc đã phải thán phục và chưa hiểu hết nổi. Thế mới biết cái học không qua được Chánh Giác.
quancong_r
Tranh Quan Công,
bàn thờ Hộ Pháp.

Trong thời Đức Tịnh Vương tận độ chúng sinh, có Quan Công ở cấp Thần thuộc hàng Hộ Pháp vô hình, nguyện ứng trực hộ trì chánh pháp. Quan Công đã tinh tấn dùng thần lực đi đến những nơi cần trên các nước Cộng Sản, giải tỏa chùa chiền bị đóng cửa được mở cửa lại cho các bậc tín tâm vào lễ bái, chiêm ngưỡng Phật và tu hành theo ý nguyện.

Tăng Ni các nước Cộng Sản được tiếp tục ở chùa tu hành cho đến khi nước nhà đổi mới phải kể đến nguyện độ sinh của Chư Thiên, Chư Thần, Chư Long Thần Hộ Pháp...và nhất là của Quan Công. Quan Công thường đến Trung Hoa và Đài Loan giúp giữ gìn dân hai nơi sống trong hòa bình, nhiều lúc gay cấn chính Quan Công nhận mệnh lệnh của Đức Tịnh Vương hóa thân Đức Di Lạc, đi hóa giải thật là khó diễn tả ra hết được. Cũng chính Quan Công đến nhiều lần ở Liên Xô trong những thời gian Liên Xô và Trung Hoa căng thẳng ở vùng biên giới để ngăn không cho Cộng Sản Liên Xô xua quân tràn sang nước Cộng Sản Trung Hoa.

Quan Công thật có công lớn cùng với Chư Thiên, Chư Thần, Chư Hộ Pháp, Chư Long Thần Hộ Pháp... góp phần xây dựng hòa bình trên thế giới và hộ trì Chánh Pháp do Đức Tịnh Vương điều động và lãnh đạo. Thật không thể tưởng nổi ngày xưa là Khổng Minh ngày nay cũng chính là Khổng Minh trở lại với cái tên Tịnh Vương ẩn dưới bao điều huyền diệu mà giới khoa học Tây Phương đành chịu! Ngày nay Hộ Pháp Quan Công ở đẳng cấp Thần, theo Đức Tịnh Vương lập công đức tu hành, nhóm Ngũ Hổ cùng các cận thần đời Lưu Bị của Hán Triều cũng đều phát tâm tu hành trong Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam tức trong Long Hoa Hội Thượng.

nguho_htk_small
Ảnh Ngũ Hổ, Ngài cho treo
tại Trung-Ương-Hội-
Thượng số 6 Huỳnh Thúc
Kháng, Nha Trang.
Các vua, quan thời đại Đinh-Lê-Lý-Trần cũng lai sinh theo tu quanh Ngài với xác thân mới tên tuổi mới của kiếp này. Không có gì lạ vì nhân duyên đã gieo từ trước, ta thấy lịch sử ghi chép lại những triều đại này đều sùng ái đạo Phật, nay họ cầu Tri Kiến Giải Thoát nên gặp lại. Thời này Lưu Bị cùng những cận thần xưa lai sinh làm người theo tu hành con đường Giác Ngộ.

Quan Công còn gọi Quan Vân Trường không lai sinh làm người mà vẫn giữ vị trí cấp Thần vô hình theo hộ trì chánh pháp, ông cũng thường đi Hoa Kỳ và nhiều nơi của thế giới tự do. Còn Trương Phi ngày xưa nay chính là Tổng Thống Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan. Gần ngày nhập Bát Đại Niết Bàn Đức Tịnh Vương chứng minh cho Quan Công là Hộ Pháp và căn dặn:

“Sau này ông truyền cho các chùa nên thờ Quan Công vì ổng đi giúp mở cửa các chùa cho chúng sinh tu hành!”

Ngày xưa pháp tánh như thế nào thì nay cũng diễn y thời Ngài Khổng Minh thật khó nghĩ bàn. Nhóm Ngũ Hổ cũng nằm Bộ Trung Ương điều hành suốt lộ trình hành đạo của Ngài cho chúng sinh được tu hành. Đặc biệt chân tử Ngài đông và bên cạnh có khá nhiều con cháu Đề Bà Đạt Đa cũng tu nhưng lòng dạ đầy trắc ẩn, đầy tỵ hiềm, luôn tìm cách quấy nhiễu.

Đức Tịnh Vương còn cho ghi bốn câu thơ thể hiện chữ hiếu của Quan Công:

“Bất hiếu tử nạn tai khiên
Khổ hình sài giải bệnh tương truyền.

Oan hình lao ngục oai xiên phối
(đem ngục hình tới)
Thủy hỏa chi tai mạt khải liên.” (liên tục chuyện dữ mang tới)
–Quan Công

Về phương diện thần bí, dưới mắt Thiền Sư giải đáp thì khoa học, không chấp nhận vì họ đòi hỏi phải có hiện vật thí nghiệm cụ thể chứng minh nhưng dù cho có cụ thể chứng minh để giải đáp mà họ chưa có cặp mắt Thiền Định, chưa có trình độ Thiền Sư khó mà nhận được để chấp nhận.

Ví như khi Đức Tịnh Vương Chánh Giác Ngài nhớ tiền kiếp quá khứ, rất nhiều kiếp cả trăm ngàn năm về trước nay thấy đủ chuyện tương lai của nhân loại trên quả địa cầu này cùng của Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, giờ này có nói ra càng thêm cải vả. Vài năm mới đây chuyện bảy hành tinh cùng hiện một lúc mà báo chí đã đăng tin, thế giới đâu có biết chính Đức Di Lạc đã thực hiện, dù có biết cũng không thỏa mãn cho họ được. Chỉ trừ họ quay về Việt Nam nguyên cứu, theo học Đông Phương, khám phá ngay chính thân mạng họ, may ra mới thỏa mản được mà giao cảm đồng thể với vũ trụ, với Thượng Đế như trong Hịch chứng minh, Ngài quả quyết có thế giới vô hình hằng hà sa số trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giơi trong khi đó khoa học tìm có vô số hành tinh nhưng lại không tìm ra được sự sống của các sinh vật mà chỉ mắt Thiền Sư mới thấy.

Vì sao? Vì Thiền Sư luôn hướng thượng nhờ ý thức thi hành trong cuộc sống điều ngự tánh tình, kết quả trở thành Siêu Nhân, Thánh Triết, nhận thấy cái gì cũng chân thật, ngoài ra còn cá tánh lấy cái học để nghiên cứu khó mà thấy đặng.

• Vua Lý Thế Dân. Đời nhà Đường ở Trung Hoa Vua Lý Thế Dân chính là Bồ Tát Di Lạc trong lúc đó hóa thân Tôn Giả Mục Kiền Liên chính là Trần Huyền Trang đi thỉnh kinh từ Trung Hoa đến Ấn Độ. Đức Tịnh Vương hóa thân Đức Di lạc khai thị tôi nghe như vầy:

lythedang
Vua Lý Thế Dân
“Bồ Tát được đích Bất thối tuyệt đỉnh, bậc này an nhiên không còn ái nhiễm, bước ra đi dạo khắp các cảnh giới. Lễ bái Đức A Di Đà Phật, một là an trú tịnh độ hai là phát Đại nguyện lai trần.
Nếu lai trần xuống đặng làm Vua minh chánh, làm lãnh tụ cứu nước, cứu an dân lành, giải khổ ách nô lệ. Bậc này dù tái sanh nơi nào trong lục đạo cũng đặng làm thủ lãnh cứu nguy, chớ không bao giờ làm thường dân cả. Vì sao phải làm vua hoặc làm lãnh tụ? Vì có làm vua hay làm lãnh tụ sau này mới có trang nghiêm quốc độ thành Phật, trước tiên làm chủ giúp dân, sau làm chủ vũ trụ, đó chính là lẽ đương nhiên nó phải như thế.”
–T.V.

Ngài còn dạy: Làm vua để đào tạo tài có Tài mới có Trí. Đức do tu tập nhiều kiếp đã có sẵn. Nay có trí được Đức trí tương song. Bậc tu thực hiện được Siêu Thiện mới có đức lớn như biển cả. Trí Vô Thượng Đẳng là trí không ai địch nổi. Đức trí siêu việt như vậy là Phật.

Cho nên bậc này không hiền mà cũng chẳng dữ. Không thiện mà cũng chẳng ác. Chỉ thực hiện đúng pháp vô sanh trở thành bất tử, nó phải như vậy.

Bậc Thánh Hiền chỉ đi có một mặt phải, còn mặt trái của đời không đủ tài nên dể bị chết mà không oán, lại đem tình thương ban cho họ nữa. Pháp này không có Chánh Giác cũng không có Vô Thượng Đẳng Trí, chỉ có trí Thánh Hiền đến giác ngộ là cùng. Bậc giác ngộ rốt ráo tức Chánh Giác, bậc này phải chờ diện kiến Đức Đại Lực Di Lạc thành Phật thử thách, kiểm tra rồi chứng minh mới được nhập thể.

Như Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã từng chứng minh Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Di Lạc Bồ Tát... Thời hạ kiếp này cũng vậy, Đức Di Lạc đã khai mở Long Hoa 37 năm mà những vị tự xưng Chánh Giác không vào diện kiến để chứng minh, dù có xưng Phật cũng không phải Phật thật vì chưa đủ công năng công đức mà xưng bị kẹt ở Phật Giới thật tai hại vô lượng kiếp. Bởi vậy bậc tín tâm biết rằng, mỗi khi Đức Di Lạc lai trần đều có tất cả các vị Tổ thời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật theo tu học ở quanh Ngài.
lythedang_huyentrang
Vua Thế Dân và
Ngài Huyền Trang.


Như đời nhà Đường ở bên Tàu, vua Lý Thế Dân ra đời chính là Bồ Tát Di Lạc thì có Tôn giả Mục Kiền Liên hóa thân là Trần Huyền Trang đi thỉnh kinh. Một điểm đặc biệt mà bậc tín tâm cần lưu tâm là trước khi viên tịch, chân tử của Pháp sư Huyền Trang tên là Phổ Quang và những người khác có hỏi “Thầy có chắc được tái sinh lên cõi Trời Đâu Suất không?

– Pháp sư trả lời: “Chắc chắn như vậy” Rồi Pháp sư nói “Nhục thân độc địa này của Huyền Trang thật đáng nhàm chán. Nay công việc đã xong, tôi quả không nên lưu lại ở đây nữa. Tôi xin hồi hướng tất cả công đức và tri thức của tôi cho tất cả chúng sinh, cầu mong tất cả chúng ta sẽ được sinh lên cõi trời Đâu Suất theo học Bồ Tát Di Lạc và phụng sự Ngài. Khi Đức Phật lại xuống trần, chúng ta cầu mong sẽ được xuống lại cùng với Ngài để tiến hành Phật sự cho đến khi chúng ta đạt được mục đích Tối Thượng”

Sau khi nói lời từ biệt ấy, Pháp Sư lại Thiền định. Đoạn Ngài đọc lên một bài kệ tán Phật Di Lạc và lập nguyện được tái sinh lên cõi Trời Đâu Suất. Nói xong hơi thở Ngài yếu dần và Ngài tịch một cách bình an. Da Ngài vẫn hồng hào và sắc mặt Ngài hoan hỷ. Trong bảy ngày nét mặt của Ngài vẫn không đổi và nhục thân không thoát ra mùi gì khó chịu. Lúc bây giờ là năm 664 tức là thế kỷ thứ bảy.

Lời thệ nguyện này, nay là thế kỷ thứ 20, đã được trả lời hùng hồn nhất, chân thật nhất được Đức Tịnh Vương Nhất Tôn hóa thân Đức Di Lạc đã chứng minh. Thế mới xác minh sanh tử luân hồi là có thật. Đức Di Lạc Hạ Lai kỳ này ở vào hậu bán thế kỷ thứ 20. Ngài hiện cư sĩ. Trần Huyền Trang cũng hiện cư sĩ. Chư Tổ thời Đức Phật Thích Ca cũng hiện diện đầy đủ với hạnh cư sĩ tại gia. Tất cả đều có gia đình, vợ, con làm tất cả các ngành nghề trong xã hội miền nam Việt Nam.

Nay đã hội tề đông đủ, theo tu học Đức Di Lạc. Trong đó Trần Huyền Trang với hóa thân mới, tên mới của kiếp này đã được Đức Tịnh Vương hóa thân Đức Di Lạc chọn đứng đầu Bộ Trung Ương, tiến hành Phật sự suốt lộ trình hành đạo của Ngài ở thế giới này. Ông cũng chịu muôn vàn gian nan, khắc nghiệt của thời mạt kiếp còn hơn thời đi thỉnh kinh nữa. Có rất nhiều chân tử Ngài Tịnh Vương đồng tu với Huyền Trang đã tìm đủ cách xô, lật, đập đổ... đủ hình thức nhưng họ không đủ trí bát nhả nên đã nhiều đợt bị thất bại.

Thật hy hữu thay lời nguyện xưa ở thế kỷ thứ bảy đã được thể hiện đúng vẹn vừa ở thế kỷ 20 này, thế kỷ nguyên tử mà Đức Di Lạc đã hiện thân. Ngày nay đã được giải có đáp số đúng.

Một lần nữa: “Khi Đức Di Lạc xuống trần chúng ta cầu mong sẽ được xuống lại cùng với Ngài để tiến hành Phật sự cho đến khi chúng ta đã đạt được mục đích Tối Thượng” đã được thực hiện và đã đạt Vô Thượng Đẳng Chánh Giác, duy nhất được Đức Di Lạc ban hành Hịch vào hàng Bồ Tát Ma Ha Tát trong Đại lễ 30 tháng 9 năm 1989.

Thế mới biết bậc tu hành thành thật tâm và thiết tha tâm đều được Chư Phật mười phương gia hộ chứng minh không có sai chạy. Giả sử nếu thời pháp sư Huyền Trang không được sanh về cõi Trời Đâu Suất như đã hạnh nguyện, sao ta thấy kỳ hạ lai này Đức Di Lạc hiện cư sĩ ở tại gia, Huyền Trang cũng hiện cư sĩ tại gia và gặp nhau kiếp cuối thành Phật của Đức Di Lạc. Huyền Trang cũng đã phụng sự đúng nguyện và đã thành công. Kiếp nào Chư Tổ cũng xuất gia nhưng khi Đức Di Lạc sống tại gia là tất cả cũng tại gia. Do đó chúng ta phải biết rằng đã có sắp xếp của Ngài trước khi lai trần và đã hội tề với nhau trước là chuyện chắc chắn.

Vào hậu bán thế kỷ thứ 11, Tôn giả Mục Kiền Liên lai sinh ở Tây Tạng là một La Ma Milarepa có lịch sử ghi chép cuốn "Milarepa Con Người Siêu Việt". Lúc đó Đức Di Lạc là Thầy dạy đạo cho Milarepa. Bao nhiêu kiếp hạnh nguyện năng động thuộc phẩm Bất Khả Tư Nghì, chờ đến thời Hạ Lai này mới được chứng minh là cả một chuổi dài qua nhiều kiếp tinh tấn không ngừng, không mệt mỏi, cùng sự chịu đựng vạn pháp diễn hành có lắm lúc kiệt sức. Nhiều bậc chạy dài trong thời mạt pháp này, không chịu đựng nổi phải quay lại vào chùa, vào cốc, trốn không gặp vạn pháp diễn hành ở thế gian!

Một hôm Đức Tịnh Vương hóa thân Đức Di Lạc khai thị: Chân tử của Ngài hàng hàng lớp lớp hiện nay, người nào thấp nhất cũng làm quan ở triều đình còn thì Đại Thần của Ngài thời Khổng Minh và thời vua Lý Thế Dân đời Đường nay đều phát tâm tu hành. Thế mới xác nhận được nhân duyên đã cao dày nay mới tái hợp được./-
ế