–“PHẬT ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh vũ trụ. BỒ TÁT có quyền chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng.″

Chương II: TỪ Đâu Ta Đến

15 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 48284)
Chương II: TỪ Đâu Ta Đến

• Bối cảnh xã hội trên thế giới sau Đệ Nhị Thế Chiến.

bom_nagasaki
Bom nguyên tử tại
Nagasaki, Nhật Bản
thế chiến thứ hai.
Sau Đệ Nhất và Đệ Nhị Thế Chiến chỉ tính sơ qua những biến cố kinh tế, xã hội, chính trị của các quốc gia trên thế giới, dồn dập nghiêm trọng đến mức độ những nhà bác học, những nhà phát minh khoa học, những nhà xã hội học hoang mang và lo sợ.

Nhiều người bi quan cho rằng thế chiến thứ ba sẽ bùng nổ do những công trình phát minh của họ đồng thời cũng báo hiệu ngày tận thế sẽ xảy ra. Song song với việc con người tác tạo quá mức, còn có những trận cuồng phong bão tố tàn phá dữ dội, những trận động đất cực mạnh, nạn hạn hán kéo dài, nạn lụt lội tệ hại nhất thế kỷ, đã làm chết không biết bao nhiêu người mà kể cho hết được.

Đặc biệt nhất là nạn ô nhiễm môi trường sống thiên nhiên trong đất, trong nước ao, hồ, sông, biển. Khí độc thải ra phá tầng ozone của bầu khí quyển mỗi ngày một lớn dần. Trong khi những nhà lãnh đạo của các nước tiên tiến về công nghiệp chưa ý thức nhanh chóng làm chấm dứt những vấn nạn trên.

Chỉ bấy nhiêu tác hại trên cũng là nguyên nhân gây bệnh hiểm nghèo mỗi ngày một lan tràn cho nhân loại. Hậu quả thảm khốc và đau thương khủng khiếp hơn nữa trong trận Thế Chiến một và hai, những cuộc được gọi là cách mạng, đã để lại cho những người dân vô tội bị tan thương, mất mát không sao kể cho hết được.

Nhiều bậc có đạo đức, có trình độ hiểu biết về sự tồn vong của nhân loại, rất lo lắng. Họ tự hỏi, nhân loại cứ tiếp diễn bị sống bấp bênh quá mức chịu đựng, cuối đường sẽ đi về đâu? Có phải đây là triệu chứng của thời Mạt Kiếp?

Hủy diệt hay có Đấng Cứu Thế ra đời? Không một ai dám khẳng định cho nhân loại yên lòng được.

Riêng tại Việt Nam, kinh sấm đã lan truyền nhanh nhiều nơi trong nước: Tu mau kẻo trễ – sắp đến rồi – Đức Di Lạc đã ra đời. Hãy vững tin chờ đợi, nhưng không ai dám nói chính xác bao giờ Ngài ra đời. Cùng lúc, cũng có lắm kẻ cười chế diễu, vì họ cho là tin nhảm, ảo tưởng đối với những lời tiên tri trên. Họ hô hào hãy dùng hai bàn tay lao động để sống.

• Bối cảnh xã hội Việt Nam.

vietnam_war_soldier_victim_01
Hình ảnh chiến tranh VN
"Một nghìn năm bị đô hộ bởi người Tàu, một trăm năm bị đô hộ bởi giặc Tây, năm mươi năm nội chiến từng ngày”, bất cứ ai mới nghe qua cũng đủ biết từ thời ông Sơ, ông Cố của dân Việt Nam đã gánh chịu bao đau thương tang tóc, sự khốn cùng kéo dài lê thê qua nhiều thế hệ, đã chứng minh bao cảnh chém giết đầy man rợ, cảnh lầm than khốn khổ, cảnh chết vì đói, vì tù đày, vì gia đình ly tan quá đau buồn... Phải thán phục sức chịu đựng của ông cha ta đứng đầu trên thế giới.

Với tình hình xã hội vô cùng khắc nghiệt và vô cùng hỗn loạn như vậy, nhiều bậc hiểu biết càng ngày càng nhận định rõ: Con người đã và đang sụp đổ về tinh thần cùng sự suy đồi thường diễn hàng ngày khiến họ tin rằng Đức Di Lạc sắp ra đời vì Cùng Tất Biến là lẽ thường.

Để tán thán lời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật cách đây đã hơn 2500 năm, Ngài đã khai thị hoàn toàn đúng với trăm ngàn chân thật. Đọc xong, quý vị Tăng Ni, Phật Tử, các nhà xã hội học, bác học, nhà phát minh khoa học hãy lập thành phái đoàn đến miền Nam Việt Nam, khảo sát và kiểm chứng lại. Qúy vị sẽ thấy bỗng nhiên ĐÊM hóa NGÀY của thế giới chúng ta đang sống đầy mầu nhiệm, đầy kỳ bí.

Nó thực tiễn lắm! Không một chút ảo tưởng, không hề viễn vông! Qúy vị còn tìm được nguồn sống mới an vui và tràn đầy hạnh phúc cho hiện tại và những kiếp tương lai nữa. Nếu không có luân hồi sao rất nhiều bậc tu nhớ kiếp trước của mình là ai? làm gì? ở đâu? rồi ghi chép lại rành mạch. Đối với các bậc Thánh Nhân, Thiền Sư nhớ quá khứ kiếp, đã ghi chép lại. Ngày nay các nhà khoa học cũng đã nghe, thấy, nhiều tài liệu đã để lại có chứng minh.

Các Nhà Khoa Học, Thực Nghiệm kiểm chứng các vật bên ngoài, còn các Thiền Sư Đông Phương kiểm soi khám phá ngay trong thân mạng mình để biết vũ trụ.

• Đức Tịnh Vương Nhất Tôn là ai? Ngài đã làm gì cho nhân loại?

Điều mà người tu hành lẫn người thế gian cần biết, Đức Trí của Chư Phật quá siêu đẳng, đã từng đem lại nguồn sống và hạnh phúc cho tứ loài mà tứ loài chẳng hay biết.

Bậc Chánh Giác chỉ sử dụng thần thông như một phương tiện khi cần thiết. Chư vị cũng không muốn những mầu nhiệm của vũ trụ được sử dụng để tiết lộ cho kẻ phàm tục đầy kiêu ngạo biết. Làm xong Ngài âm thầm ra đi, không cần chúng sanh tranh cãi đúng sai, không cần ở lại hưởng gì của thế gian, miễn sao tận độ chúng sanh an lành là đủ. Mùa Vu Lan năm 1969 tức năm 2513 Phật Lịch, nhờ một đại duyên lành, tôi theo tu học Đức Tịnh Vương Nhất Tôn. Một hôm Ngài gọi tôi và bảo:

- Này ông Pháp Khả, ông là Chân Phật Tử có căn cơ, quyết tâm cầu đạo giải thoát rốt ráo, trước Tam Thế chứng minh, Ta tuyên đọc bài kệ sau đây đặng ông cùng tất cả nhân sinh mai sau biết Ta hóa thân kiếp này, hiện tướng ở cõi Ta Bà Thế Giới làm tất cả những lợi ích gì để tận độ chúng sinh trong thời Mạt Pháp này.

TỪ Đâu Ta đến
THỊ Hiện cư nhân
DI truyền bảo pháp
LẠC quốc an khương
TÔN giả cúng dường
PHẬT Vương minh chứng

dn_chandung_w_op6-content

TỪ THỊ DI LẠC TÔN PHẬT
thế danh Từ Thế Thọ
Hạ Lai 1918–1993
Đọc xong, Đức Tịnh Vương im lặng, không khí trong căn nhà quanh chỗ Ngài ngồi bỗng nhiên có mùi trầm hương bay thơm ngát đầy vẻ trang nghiêm, ấm cúng lạ thường. Đem từng chữ đầu mỗi câu của bài kệ trên kết lại cho ta biết được:

" TỪ THỊ DI LẠC TÔN PHẬT "

Tôi đảnh lễ Ngài mà lòng hoang mang suy ngẫm, chẳng lẽ nay tôi gặp Đức Di Lạc hiện thân bằng xương bằng thịt, đang ngồi trước mặt tôi là thật chăng? Tôi cùng các bậc tu và bậc không tu đang ở tôn giáo nào cũng cần xem xét lại, Đức Di Lạc đã thị hiện đúng thời điểm, đúng hoàn cảnh, đúng thời Mạt Pháp. Ngài hoan hỷ lấy Đại Lực để gánh chịu. Ngài tận dụng Phật Lực chuyển hồn loạn của thời Mạt Kiếp đến Thượng Kiếp.

Lần Hạ Sanh này, Đức Di Lạc lấy danh hiệu Tịnh Vương Nhất Tôn, khai Đạo tại số nhà 42 đường Hồng Bàng Nha Trang, những năm gần mãn đời, Ngài dời về ở số 6 đường Huỳnh Thúc Kháng Nha Trang. Hôm nay thời điểm đã đến, khi ghi lại sự kiện lịch sử hi hữu này, tôi mong nhân sinh cùng quý vị chân tử nào nhận chân được Đời là bể khổ vô tận, là giả tạm, hãy dõng mãnh phát tâm cầu Đạo Giác Ngộ, thoát khỏi Sanh Tử Luân Hồi. Dù của cải giàu có chất đầy cả thế gian này, khi nhắm mắt cũng ra đi với hai bàn tay trắng. Lại không biết mình đi về đâu mới là điều sầu khổ không tả hết.

Bình Định nơi Đức Di Lạc Hạ Sanh

noihasanh_tranh_dn_01_r
Căn nhà lá tại Bình Định,
nơi Ngài Hạ Sanh.
Lúc 8 giờ sáng một ngày cuối mùa đông năm 1969 dương lịch, tại căn gác gỗ nhỏ số 42 đường Hồng Bàng Nha Trang, Đức Tịnh Vương Nhất Tôn khai thị, tôi nghe như vầy:

Từ Cung Trời Đâu Suất, Ngài mặc chiếc áo tràng dài, rộng, màu thanh thiên tức màu xanh da trời tươi đẹp, hai bên có Chư Thiên, Chư Long Thần Hộ Pháp, Chư Hộ Pháp Bồ Tát, Chư Bồ Tát cung nghinh theo tiễn. Ngài bước xuống thế giới Ta Bà này đến giáp ranh tầng khí quyển, Chư Thiên, Chư Long Thần Hộ Pháp nhìn thấy bụi hồng trần bao phủ dày đặc, đầy chất bẩn, tất cả đều dừng lại, cung kính chiêm bái Ngài và không dám đi theo nữa.

Chỉ một mình Ngài đi thẳng đến tỉnh Bình Định thuộc miền Trung nước Việt Nam. Ngài đứng trước cửa nhà, chờ bà mẹ tên là Nguyễn thị Phụng sắp sanh. Khi bà vừa hạ sanh ra một bé trai, Ngài liền nghiêng mình khẽ nhẹ bước vào thân chú bé. Lúc bấy giờ khoảng 9 giờ sáng ngày 24 tháng 12 âm lịch năm Kỷ Mùi (1918) tức năm 2462 Phật lịch. Ngày tháng này thời tiết đang chuyển mình sang ngày đầu Lập Xuân.
me_dncha_dn
Cha Ngài là Từ Như Ý, gốc Hoa và mẹ là
Nguyễn Thị Phụng, người Việt.
Chân dung trên bàn thờ.


Cha Ngài tên Từ Như Ý đặt tên cho Ngài là Từ Thế Thọ. Tứ Chúng Pháp Tạng tức chân tử của Ngài, hàng năm cứ đến ngày 24 tháng 12 Âm lịch đều sum vầy về nơi Tịnh Thất của Ngài làm Đại Lễ mừng Đản Sanh Ngài. Cũng ngày này năm Tân Hợi tức ngày 08-12-1972 Dương lịch, Ngài nhắn nhủ một lần nữa cho thế gian cùng chân tử của Ngài biết Di Lạc đã ra đời, qua bài thơ do chính Ngài ghi bút và cũng chính Ngài đánh máy:

TÌNH LỜI HẠ SANH
KỶ NIỆM NĂM KỶ MÙI (1918)

Giữa buổi trời xanh, nắng dịu hòa
Thuyền con, bườm trắng chạy xa xa,
Nha Trang bãi biển chiều thanh lịch,
Tôi kể thời xưa chuyện đã qua:

Năm ấy Đông đi, xuân sắp về,

Cánh đồng thịnh trị khắp thôn quê,
Lương dân vui hưởng ba ngày tết,
Giải sạch lo phiền chuyện gớm ghê.

Năm bốn năm qua... Tết những gì?

Nhà nhà vôi trắng, dựng Nêu Quy,
Có câu Liễn Đỏ hai bên cửa,
Có pháo huy hoàng mong chứng tri.

Trong lúc ấy, kẻ đi người lại,
Mua sắm đồ cầu vái Chư Thiên,
Huyền linh chung khắp các miền,
Thực hư, hư thực bởi duyên thanh bình.

Cùng ngày hai bốn viên minh,
Cũng trong tháng chạp, một mình Ta Thôi.
Phất phơ trên đảnh mây trời,
Đương Lai Sanh Hạ hợp thời Hạ Nguyên.

Ta có nói vẫn lời dư dả,
Ngày hôm nay thư thả như nhiên.
Phú cho mạt thế vẹn tuyền,
Của Như Lai Dụng, một phiên diễn tuồng.
Thiện Chân Tử chính nguồn an ủi,
Pháp Tạng nầy, chung tuổi ấm êm,
Miễn sao dưới mái gương thềm,
Chung vui hoàn giác, nỗi niềm Tôi mong.

–TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
Ngày Đản Sanh: 24-12 Tân Hợi
(08-02-1972)


“Giải sạch lo phiền chuyện gớm ghê”

Thế chiến thứ nhất năm 1914-1918 chấm dứt, nhân loại nhất là các nước kém mở mang đã giải thoát được thế chiến thứ hai 1939-1945. Hiệp định Geneve 1954 ra đời và nhiều người lo sợ nạn xâm lăng của chiến tranh. Trong bối cảnh khắc nghiệt báo hiệu cường độ hỗn loạn gia tăng, Ngài đã ra đời được một tuổi.

“Huyền linh chung khắp các miền”

Trong lúc dân chúng đi lại mua sắm vật dụng Tết thì cả một thể vô hình của Chư Long Thần, Địa Thần, Tứ Bộ Thần, Thượng Đẳng Thần quanh vùng Ngài thị hiện, đã có huyền cơ linh ứng chung khắp canh giữ Ngài.

“Thực hư hư thực bởi duyên thanh bình”

Nhìn gần, duyên thanh bình làm lương dân vui sắm Tết, nhưng nhìn xa, thế chiến thứ Ba đang âm ỉ không thực thanh bình, như thực hư hư thực vậy.

“Cùng ngày hai bốn viên minh”

Hai mươi bốn viên minh là ngày đặc biệt, rất hiếm có dịp đến. Vì sao? Vì ngày này năm ấy, theo lịch Trung Hoa là ngày Lập Xuân, tức ngày cuối đông thời tiết đang chuyển sang xuân tươi sáng.

“Phất phơ trên đãnh mây trời
Đương Lai Sanh Hạ hợp thời Hạ Nguyên”


Từ cõi Trời Đâu Suất, Ngài đi vào bầu khí quyển và các tầng mây đến thế gian. “Đương Lai Sanh Hạ”. Từ lâu Kinh Phật Giáo vẫn thường dùng để chờ đợi Đức Di Lạc, nay Ngài ghi bút cũng là nhắc cho thế gian biết hiện nay đã là Hạ Kiếp rất hợp thời cơ cứu đời của Ngài.

“Ta có nói vẫn lời dư dã
Ngày hôm nay thư thả như nhiên”


Ngài biết dù Ngài có nói thực, thời này vẫn là lời nói thừa, chúng sinh điên đảo chẳng tin. Phần Ngài vẫn bình thản theo lời đã nguyện.

“Phú cho Mạt Thế vẹn tuyền”
Của Như Lai Dụng, một phiên diễn tuồng”


Thời Mạt Kiếp thế giới muốn phát sinh độc hại như thế nào cũng mặc sức, còn Ngài đã biết được nó là diễn cảnh một thời của Như Lai để tiến đến Thượng Kiếp.

“Thiện Chân Tử chính nguồn an ủi
... Chung vui hoàn giác, nổi niềm Tôi mong”


Tuy thế gian diễn cảnh độc nhiễm tùy thích, nhưng Ngài vẫn còn niềm vui là số Chân Tử cầu giác ngộ đang theo Ngài. Long Hoa mà hầu hết những bậc tu trông chờ chính là:

PHÁP TẠNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Còn Đức Di Lạc của quá khứ nay ẩn dưới danh hiệu TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN.

Lãnh đạo Pháp Tạng làm chủ mối đạo, Ngài lập danh xưng: TĂNG CHỦ NHẤT TÔN.

Khi mới sanh ra, thân hình Ngài đẹp, tướng hảo quang minh nhưng gia đình rất nghèo khổ, nhà vách bằng tre trét đất sét với rơm rạ, mái lợp tranh ở thôn quê. Chư Long Thần Hộ Pháp (vô hình) thấy vậy gỉa hiện mặt Qủy dữ tợn, bà mẹ nhìn thấy sợ quá bế con chạy sang nhà bà con sạch sẽ hơn, cao ráo hơn. Vì mới sanh được ba ngày nên ánh nắng chiếu vào mắt làm cho một con mắt Ngài phải bị tật.

Âu đó cũng do Như Lai báo trước, căn cơ của chúng sinh thời Mạt Kiếp, Phật ra đời mà chúng sinh không gặp được. Chỉ công đức Chư Tổ, tâm rỗng rang, lại có tâm tu cầu Giác Ngộ mới có Đại Duyên Lành đến được với Ngài mà thôi.

Ngài dạy tiếp: Tôi dùng thần thông hiện đầy đủ 32 tướng tốt giống Chư Phật rất dễ, nhưng thời Mạt Pháp chúng sinh đang ưa chuộng sắc tướng, âm thinh mà hiện thân như vậy, bá tánh chỉ vào cúng lạy, chớ không tu sửa tánh xấu thì đâu có ích lợi gì.

• Thành Phố Nha Trang thuộc tỉnh Khánh Hòa nơi Đức Di Lạc Hành Đạo.

nhadn_sinhtrung_tranh_01_r
Nhà Ngài, 22/14 Sinh Trung
Tôi nghe như vầy: Trong Thế Chiến thứ hai 1939-1945 tình hình nước Việt Nam bấy giờ chiến tranh lan tràn khắp nơi. Lúc đang ở Bình Định, vì bị tình nghi, chính quyền Cộng Sản Việt Nam kết án Ngài 10 năm nhưng mới ở tù được 26 tháng thì Hiệp Định Geneve ra đời và Ngài được thả tự do. Lúc đó, Ngài được 36 tuổi và di chuyển về Nha Trang thuê mướn một căn nhà nhỏ lợp tranh vách đất ở Sinh Trung gần chợ Đầm bây giờ.

Đến năm 1956 Dương lịch tức năm 2500 Phật Lịch, Ngài đắc Vô Thượng Đẳng Chánh Giác. Từ đó, Ngài dùng công năng trong vô lượng kiếp quá khứ, tận độ chúng sanh trải qua nhiều kiếp tích lũy công đức. Kiếp này Hiển Thị Phật Thân xây dựng Quốc Độ và tạo dựng thời Thượng Kiếp nơi cõi Ta Bà thế giới này. Từ nay, cứ mỗi giáp tức 12 năm, thế giới sẽ biến đổi dần dần đến thanh bình, con người sẽ thanh nhàn, thư thả và có đạo đức trở lại.

Kinh Phật tự chính Ngài ghi bút lưu lại hiện còn đầy đủ. Để chứng minh Ngài đã thị hiện, tôi xin ghi lại một số điểm chính nữa hầu quý vị nhận định đầy đủ hơn qua Ấn Chỉ 1-2-3-4*

* Ấn là ấn chứng vũ trụ nhân sinh.
* Chỉ là trực chỉ.

Mặc dầu không ai hiểu Ngài lúc này, nhưng Ngài vẫn âm thầm hóa giải thế gian qua Ấn Chỉ 1 cũng do Ngài đánh máy ra:

PHÁP ĐỘ THỜI ĐÔNG ĐỘ
Ngày: 20-01-Năm Đinh Tị
Giờ Ngọ 09-03-77

PHẦN KỆ:
Tây Phương cực lạc trổ huỳnh quang,
Đông Độ Đương Lai đã mở màn,
Diệu dụng tương song về nhất tướng,
Tứ loài đang diễn mộng chưa tan.

PHẦN GIẢI:
Ta đi Tây Độ tỏa huỳnh quang,
Ta lại Đông Phương vẹt bức màn,
Hòa hợp tương song đồng hiện tướng,
An khang lạc quốc trọn vinh quang.

PHẦN DIỄN:
Ai hiểu đến Ta giữa lúc nầy,
Ráp vần xoay vận hiệp Đông Tây,
Lời thề Vương Bảo tô nền tảng,
Cốt vãng hồi sanh thoát đọa đày.

PHẦN HÓA:
Thiên Tiên mừng rỡ vỗ tay,
Địa Tiên ngơ ngẩn châu mày thở than
Nhân sinh đi đứng ngỡ ngàng,
Các hàng Bồ Tát cười vang vui mừng.
Tam Giới rung chuyển chưa ngừng,
Ta ngồi Bửu Tọa vạn tuần xinh xinh.

PHẦN ẤN CHỈ:
Thế nhân cầu đạo chân thành,
Long Hoa nào rõ trở thành đảo điên.
Thân phàm Long Thọ vẹn tuyền,
Còn TÂM ÓC TRÍ của Tiên. Thánh. Thần.
Giác toàn chính thật là THÂN,
Tại sao chưa tỉnh phân vân nỗi gì?
Tìm đâu? Nhìn thẳng bài thi,
Lời Ta đã ngỏ những gì Phật ngôn.

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
Lúc giờ Ngọ (12) giờ trưa:
09-03-1977













































Thời Đông Độ
: Thời đồng hóa nhân sinh, hiện thân cư sĩ, dìu dắt bậc tu về với Chân Tôn Hiện Giác.

PHẦN KỆ:

Tây Phương ý nói Cõi Trời Đâu Suất đầy an vui, an lạc trong ánh Đạo vàng.

Đông Độ Đương Lai đã mở màn: Ngài Hạ Sanh tại Đông Phương, Đông Độ còn có nghĩa Cư Nhân Hạnh (cư sĩ). Đương Lai: Đức Di Lạc đã mở Đạo.

Ngài dụng đủ phương tiện tuyệt mỹ để chỉ ĐỜI LÀ ĐẠO LUÔN SONG HÀNH, luôn hiện như hình với bóng, tuy hai nhưng chỉ có một Tướng, Ngài tùy thuận cốt đưa nhân sinh về một lối tu duy nhất là Giác Ngộ.

Khi Ngài mở màn khai đạo, tứ loài đang gia tăng cường độ, đua tranh sát phạt nhau hỗn loạn, triền miên sống trong cơn mê.

PHẦN GIẢI:

“Ta đi Tây Độ... Ta lại Đông Phương”... Hóa thân Đức Tịnh Vương Nhất Tôn hiện nay chính là Đức Di Lạc từ Thiên Thừa Hạnh (xuất gia) thuở trước, nay hiện Cư Nhân Hạnh (tại gia), mở màng vô minh cho lối tu sai lạc của thời Mạt Pháp. Ngài hòa hợp cho nhân sinh dụng nghe, thấy, biết trong đời để tu hành, chuyển cái Nghe, Thấy, Biết trở thành vạn pháp không mắc miếu. Thực hiện được con người sống an lành, hạnh phúc, gia đình ổn định, đất nước an lạc.

PHẦN DIỄN:

Ngài thường đi Khai Đạo nơi có Chân Tử như Nha Trang, Qui Nhơn, Đà Nẵng, Huế, Sài Gòn. Cũng có một số tu sĩ xuất gia đến gặp Ngài, đọc kinh sách giải thoát của Ngài. Họ chỉ biết Ngài là ông Thầy Tịnh Vương. Suốt lộ trình Ngài không hề có một tu sĩ nào tìm hiểu pháp môn giải thoát, cũng không quan tâm, lại còn xem lối tu này không cần thiết và hoàn toàn xa lạ.

Song song với việc dạy đạo cho Tứ Chúng chung quanh, Ngài còn một Đại Nguyện khó khăn nữa, đó là quyết đem Bảo Pháp của Chư Phật xây đắp cho thế gian, chuyển từ Phương Đông sang Phương Tây, cho họ có lối tu thực tiễn sửa tánh, giải bỏ đố tật xấu, hóa giải hoàn cảnh đến minh tâm thoát khỏi khổ ải, ngay trong mỗi mỗi gia đình. Việc làm chuyển thế giữa lúc này, không một bậc lãnh đạo tôn giáo nào hiểu gì cả.

PHẦN HÓA:

“Thiên Tiên mừng rỡ vỗ tay”

Vì sao? Ở Cõi Tiên, Chư vị Thiên Tiên đang quan sát theo dõi chuyến Hạ Lai của Ngài. Thiên Tiên là những bậc ở ngoài trái đất của chúng ta, họ rất nhạy cảm. Từ quá khứ cho đến vị lai rất giao cảm, tất cả sự di chuyển điều động vạn pháp xuất hiện hay lưu hoàn thảy đều tỏ thông liễu ngộ, chỉ sút kém với hàng Bồ Tát chưa biết thân mạng mình đổi thay, thay đổi như thế nào để giải quyết sanh, tử, lão, khổ.

Bậc Thiên Tiên nhìn thấy vũ trụ, nhân sinh an lành, đến thời Hạ Lai Mạt Kiếp địa ngục phát sinh, nghiệp đau khổ tràn đầy liền nhìn thấy được có Đại Lực cứu độ tứ loài nên Thiên Tiên mừng rỡ vỗ tay.

“Địa Tiên ngơ ngẩn châu mày thở than”

Vì sao? Vì Địa Tiên luôn hướng về thời Trung Kiếp còn gọi Hiền Kiếp, thời này tu hành trọng Đạo Đức, Thánh Hiền. Đến khi thấy hỏa ngục phất, Đại Lực Di Lạc tận dụng nương theo thời Hạ Lai cứu độ, hàng Địa Tiên không hay biết khi thấy Thánh Hiền, Bồ Tát bị khổ như thân trâu ngựa nên cho là Phật Đạo suy đồi, Mạt Pháp mà khóc than. Còn hàng Thánh Hiền, hàng Bồ Tát đều đi trong “Phổ Môn Phẩm” tức đi trong HỎA NGỤC, chịu đắng cay, chịu nhục nhã, chịu cực hình để độ KHỔ cứu độ chúng sinh.

“Nhân sinh đi đứng ngỡ ngàng”


Vì sao? Vì nhân sinh bị cuộc sống đảo loạn,từ có hóa không, từ an ổn đến hỗn loạn, từ sum họp đến ly tan, từ nơi mát mẻ hóa nóng bức, từ nơi êm ấm hóa không nhà cửa sống lang thang. Nhân sinh cho đến bậc tu mất thăng bằng, không còn định hướng, không còn tin Phật đúng đắn, chạy theo Hỏa Ngục, chạy đến chân trời mới... ai ai cũng kinh ngạc, lo lắng, bỡ ngỡ, liều lĩnh.

“Các hàng Bồ Tát cười vang vui mừng”


Hàng Thánh Hiền, Bồ Tát nguyện đi trong “Phổ Môn Phẩm” nên đứng trước hoàn cảnh khắc nghiệt thân tâm vẫn ghi nhận và rỗng rang vui mừng. Độ khổ là món ăn của hàng Bồ Tát nên vui mừng chịu tận theo vết chân Chư Phật.

“Tam giới rung chuyển chưa ngừng”


Tam giới: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Các Cõi Trời này thấy thế gian bị Hỏa Ngục phất cũng lo âu, bàng hoàng, toàn thân chư vị ở các Cõi này rung chuyển đau đớn theo.

“Ta ngồi Bửu Tọa vạn tuần xinh xinh”

Ngài biết chẳng qua chỉ là diễn ảo của thế gian và lần Nhất Sanh Bổn Xứ này, Ngài thành Phật Quả mãi mãi xinh tươi bất diệt.

PHẦN ẤN CHỈ:

“Thế nhân cầu đạo chân thành”

Ngài đã biết thế nhân hiện nay tu theo Đạo Phật số lượng rất đông, hầu hết đều nương tựa vào Tăng Ni ở chùa, cốc núi rừng, lòng rất thành tâm cầu Đạo vì ngao ngán cuộc đời. Riêng Ngài vẫn than:

“Long Hoa nào rõ trở thành đảo điên”

Câu thơ này cho biết quá rõ Đức Di Lạc đã ra đời, khai mở Long Hoa, dạy Đạo Đức cho chúng sinh đang sống trầm luân trong bể khổ đến Bờ Giác. Không một ai ở các tôn giáo chờ đợi Ngài, nhận được lối tu thực tiễn của thời Mạt Kiếp: Tự tánh tỏ tánh, hóa giải hoa pháp tánh. Trái lại, đảo điên, ảo tưởng chờ núi Thất Sơn nổ.

“Thân phàm Long Thọ vẹn tuyền”

Đến đây Ngài chỉ thẳng, thân Tịnh Vương kiếp này chính là thân phàm Long Thọ thật đúng đắn. Thân Long Thọ ngày xưa của một kiếp, chính là thân Di Lạc đây đang hiện tướng ở Ta Bà thế giới này.

“Còn tâm óc trí của Tiên, Thánh, Thần”

Tiên, Thánh, Thần là những bậc có cái nhìn nhạy cảm hơn thế gian, lời nói đây còn sáng suốt tỉnh táo như óc trí của Tiên, Thánh, Thần vậy. Ngài chỉ thẳng, giác ngộ chính nơi thân tâm của mình sao lại không nhận còn vọng cầu bên ngoài làm chi. Lời này là của Chư Phật thật sự.

“Thời này Ta đến chỉnh trang”

Chư Phật ra đời duy nhất đem đến nhân sinh trực chỉ hoàn giác. Đó cũng là Ấn Chỉ của Ba đời Phật. Theo lời Khai thị của Đức Tịnh Vương Nhất Tôn hóa thân của Đức Di Lạc, thời này là thời Hạ Kiếp, Chánh Pháp bị Mạt Pháp ngự trị lan tràn. Bậc tu chuộng cái học, chuộng nghiên cứu kinh Phật, chuộng sắc tướng âm thanh cầu đạo trở thành Bị Giác.

Ngài không tạo ra mối Đạo mới mà chỉnh trang, sửa đổi lại tu theo con đường Tri Kiến Giải Thoát, con đường Tự Giác theo Y Tôn Y Chỉ Ba đời Phật.

“Thị hiện Cư Nhân *Chỉ-Ấn-Hoàn”


Ngài cho thế nhân biết rõ ràng: Ra đời với Hạnh Cư Sĩ tại gia còn gọi là Cư Nhân Hạnh.

*Chỉ: Trực chỉ
*Ấn: Ấn Chứng vũ trụ nhân sinh.
*Hoàn: Giác hoàn, hoàn tất ba đời Phật hiện thân.

Ngày nay, đa số bậc tu không theo Ấn Chỉ trên làm cho Đạo Phật mang tiếng tiêu cực hay lớp tu ngoại giáo tế lễ đưa con người tín tâm vào nơi tu hành cuồng tín, cầu vái van xin hơn là chính bản thân sửa tánh, lập Thiện Căn hóa giải Ma Lực.

“Phật ra đời có hai lối dụng”

Một lối không, có nghĩa xuất gia ở chùa, cốc không có vợ, chồng, con cái nên tách khỏi ràng buộc của gia đình. Miễn tâm dung thông, không nhiễm trước ngoại cảnh vẫn hoàn giác.

Một lối có, tức Cư Nhân Hạnh, ở gia đình có chồng, vợ, con cái, trăm chiều ngược xuôi của bối cảnh gia đình, khi vui lúc buồn, khi sướng lúc khổ... vạn pháp diễn cảnh muôn ngàn lối trong đời sống. Miễn tâm vào ra giới không nhiễm trước vẫn giác ngộ.

Dù tại gia hay xuất gia, tu đúng con đường trực giác vẫn giác ngộ. Phần Ngài chọn tại gia, sống có gia đình vợ và 6 người con. Giới tu xuất gia ở chùa gặp Ngài bỡ ngỡ không tin.

Bậc tu xuất gia còn gọi Thiên Thừa Hạnh tiêu biểu cho phái tu Tịnh, chủ về Tịnh để Độ nhưng cũng phải Tín Hạnh Nguyện nơi NGHE THẤY BIẾT tức vạn pháp, cốt sống động mà hóa giải, dần dần tỏ vô minh không còn nhiễm trở về Tịnh Hoàn Giác.

Bằng sống yên ổn, tránh đụng chạm dù có Tịnh cũng là Tịnh Biệt, một lối tu nguy hại, không bao giờ đến bờ bến Giác. Lối tu xuất ly tránh dơ chọn sạch của bậc xuất gia vô tình trở thành Tiên, Thần Trí không có hoàn giác bao giờ. /-