–“PHẬT ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh vũ trụ. BỒ TÁT có quyền chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng.″

45. Vì Sao Kinh Sấm Nhận Định In Tuồng Thực

15 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 36205)
45. Vì Sao Kinh Sấm Nhận Định In Tuồng Thực
“Khi Kinh Sấm phát sinh, chính do lòng chân thành biểu lộ, đương nhiên chân tâm sinh vạn pháp chân như. Vạn Pháp ấy gốc Tâm Sanh, đã sanh pháp liền có Phật chứng, Phật chứng đó chính là Phật của Pháp, chớ chưa phải là Phật Trí Nhất Tôn Chánh Giác.” –T.V.

Kinh Sấm ra thi thơ do tu định tưởng của Tiên Thần Trí. Dù có thành tâm tu cầu thì định tưởng vẫn là Tâm Sanh vạn pháp. Phật hiện đây là Phật của Pháp chứng tri chứ không phải Phật Trực Giác của Chánh Giác Chứng Minh. Định tưởng thuộc Nhị Nguyên. Trực Giác thuộc Nhất Tôn. Do đó chúng sanh mới bị lầm chấp.

“Theo Kinh Sấm, lòng chân thành Nhân Chứng lúc có bậc tin vào kinh pháp, chân thành với kinh pháp liền đồng với chân như quần chúng mà phát hiện in tuồng thật với bậc chân thành chớ chưa thực với kẻ bất chân thành nên mới có câu: Linh Tự Ngã Bất Linh Tự Ngã, Cảnh và Tình hợp với bậc Tình và Cảnh chớ chưa hợp với người Vô Tình diễn cảnh đó chính là lời chân thật nhận định in tuồng thật của Kinh Sấm. Nếu gọi là đúng với tinh thần của Kinh Sấm chớ chẳng đúng với Phật Trí. Phật Trí theo lời bảo truyền của Đức Phật Không Hai, nên chi nhận định như sau:

 – LONG HOA TẬN ĐỘ: Nhận định Đồng Nước Hội Tề.


 – DI LẠC TÔN PHẬT: Nhận định Đồng Thể Tương Sanh.


 – THẤT SƠN KHAI DIỄN: Nhận định Nhất Cảnh Hỏa Khai.”


Chúng sanh vốn có cảnh sanh tình cũng như có nhơn là có quả, không có nhơn là không có quả. Do đó có tin là linh ứng hiện, không tin không có linh là như vậy. Người không tin là người Vô Tình nên Pháp Tánh không hiện gọi là không linh.

Còn bậc tu sửa theo chân lý thực tiễn con đường trực giác thuộc trí tuệ. Khi thấy cảnh nhà Ngài, các con và vợ gây hỗn loạn bậc này liền điều ngự kiềm chế tánh chướng, sau hóa giải Hoa Pháp Tánh nên người được nhạy cảm, hiểu biết được tỏ thông, lại thấy được nhận định sai lầm trông chờ Long Hoa của các bậc tu dùng Định Tưởng trở thành lầm truyền kiếp.

LONG HOA TẬN ĐỘ: Tánh độc cùng tất cả tánh xấu đều đua nhau trổ hình qua vợ và sáu người con, Ngài gánh chịu không phiền trách.

NHẬN ĐỊNH ĐỒNG NƯỚC HỘI TỀ: Các bậc tu từ Chư Tổ cho đến Hộ Pháp thời Đức Bổn Sư ngày nay đều hiện diện hội tề tại Long Hoa theo cư nhân hạnh. Di Lạc Tôn Phật: Ngài đang hiện từ trong Pháp Bất Tịnh đến Đại Thanh Tịnh.

NHẬN ĐỊNH ĐỒNG THỂ TƯƠNG SANH: Chư Tổ đều tương đồng hòa hợp với Ngài nên đồng sanh Phật Trí. Những vị quanh Ngài đều hộ trì và thi hành lời Ngài khai đi hóa giải đủ phương tiện miễn sao phát sinh trực giác là tất cả đều mong đạt cho được.

THẤT SƠN KHAI DIỄN: Chư Tổ quá khứ Chư Hộ Pháp đã nhận định được bà vợ và sáu con của Ngài chính là núi Thất Sơn.

NHẬN ĐỊNH NHẤT CẢNH HỎA KHAI: Chỉ duy nhất có diễn cảnh ở nhà Ngài đang vang nổ là Thất Sơn chứ không có núi Thất Sơn Châu Đốc nổ đâu mà chờ đợi theo kinh sấm. Nhận định theo Nhân Sanh, Tiên Thần không bao giờ gặp Long Hoa được.

“Đứng phương tiện nhận định Thất Sơn thì Đức Bổn Sư Ngài Hiện Thể tại Ấn Độ, còn Thất Sơn tại Cam Bốt cùng Việt Nam tỉnh Châu Đốc, do như thế Phật chẳng ấn truyền khó mang ra nhận định. Nhưng đứng về LONG HOA TẬN ĐỘ đến cây Long thọ Di Lạc, đồng thể thì đương nhiên liên hệ với Thể Hiện. Khi Hiện Thể một nơi nào hoặc một nước nào lấy nơi đó nhận định. Trái lại đặt trường hợp Thất Sơn, chính phải để bối cảnh diễn cảnh chung quanh Đức Di Lạc, gọi là Nhất Cảnh Hỏa Khai. Có nghĩa hoàn cảnh thuận nghịch trước sau trên dưới trong ngoài thảy đều Pháp Độ Thời Đông Độ. Đức Ngài chịu lấy cứu độ Chúng Sanh Tứ Loài gọi là Đại Lực Tôn Phật.”

Pháp Độ Thời Đông Độ: Thời Hạ Lai Mạt Pháp là thời Đồng Độ. Bậc tu và chúng sanh đều được độ vì sao? Vì các pháp diễn hành tận cùng, bậc tu, bậc không tu đều bị diễn cảnh quá sức chịu đựng làm cho chúng sanh tánh được phơi bày chẳng thiếu sót độc nhiễm.

Đến tận cùng nó thấy nó quá độc nên kiêng sợ tự hồi tâm quay về điều thiện vì có Vô Thượng Tôn Di Lạc ẩn mật điều động Như Lai Tạng đang chuyển mình. Bậc tu lẫn bậc không tu đều được kín nhiệm tận độ gọi là thời Đông Độ Hiện Giác. Còn tứ loài cũng được cứu độ như Hịch Chứng Minh Vũ Trụ ở phần trước. Do đó mà gọi là ĐẠI LỰC DI LẠC TÔN PHẬT.

“Có hai trường hợp Nhất Cảnh Hỏa Khai như: Pháp Độ nơi Ngài Xuất Gia, hoặc Tận Độ nơi Ngài Cư Sĩ Tại Gia. Hai trường hợp trên tuy khác nhưng diễn cảnh đều như nhau: Ngài Xuất Gia liền có sáu Ông Đạo và Bà Chủ Chùa. Bằng Cư Sĩ Tại Gia vẫn có Sáu Con Một Vợ đồng có Tứ Chúng như nhau.”

Nếu Đại Lực Di Lạc Tôn Phật thị hiện mà từ núi Thất Sơn nổ không có cha mẹ sanh ra thì hình thức khai Long Hoa như thế nào cũng không như nhiên. Bởi vậy có hai trường hợp Ngài thị hiện thực tế.

Một là xuất gia ở chùa cũng phải có Phật Tử cùng bà chủ chùa, mỗi người một cá tánh vẫn phải chịu Lục Đạo diễn cảnh để Ngài tận độ. Hai là Ngài hiện Cư Sĩ vẫn phải có bà vợ và các con cùng Tứ Chúng, mỗi người một cá tánh cũng phải có Lục Đạo diễn bối cảnh để ngài tận độ. Nhận định thực tế biết được Ngài khai Long Hoa tại Việt Nam.

“Sáu ông đạo hay sáu con tiêu biểu Lục Đạo. Mỗi Ông Đạo, cùng mỗi người con thảy đều mỗi ông mỗi tánh khác nhau, đến cử chỉ mỗi mỗi khác nhau hành động đều chẳng giống nhau, do lẽ ấy mới gọi là Sáu Đạo. Lúc nào hợp nhau đem câu chuyện Đi, Đứng, Nằm, Ngồi nơi Ngài bàn tán, có khi đến nhà bà chủ chùa hoặc Mẹ mà nói. Ngài thật biết như thế, Ngài thường nói Sáu Ông là Sáu Đạo diễn hành chớ nên chấp nê gì chúng.” –T.V.

Ngài hiện Cư Sĩ, sáu người con của Ngài không hiểu được Diệu Dụng của cha nên mỗi người một tánh hành động chống lại mỗi kiểu khác nhau của Lục Đạo diễn hành.

Số Chân Phật Tử tín thành còn rất ít vẫn bình thản đến với Ngài, mỗi lần hàng xóm nhìn thấy gia đình bất ổn mà vẫn có bậc tu còn theo Ngài, họ cười chế diễu, nhìn với cặp mắt khinh khi, người nhà các Phật Tử nầy lại cấm tu làm dữ, còn con trai của Ngài đánh đập không cho vào thăm Ngài. Có người con gái gọi công an bắt nếu ai còn lui tới gặp Ngài. Thật sự bậc tu lì lợm lắm, mắt thấy, tai nghe chuyện phi pháp mà vẫn tín tâm lẫn tránh, thừa dịp gặp Ngài như thường.

Ngài bảo đó là pháp vô quái ngại, phải thực hiện không nên chấp sáu người con của Ngài diễn cảnh Lục Đạo. Một số rất ít bậc tu còn lại cũng tin Ngài nhưng thỉnh thoảng mới về. Số đông 3000 Chân Tử trốn biền biệt.

Sau khi việc bất ổn đã xong số mới vào tu cũng rớt nhiều vì nghe kể Pháp Bất Tịnh họ thấy lạ quá không tin. Số còn lại vẫn tin. Cuối đời Ngài còn khoảng 100 Chân Tử chỉ nghe nhưng không có dịp chứng kiến cảnh nổi lôi phong.

Lúc đó tôi đi cải tạo, vẫn được nghe tin việc Đạo đầy đủ nhưng vẫn chí dũng nhận được Chân Pháp, hóa giải chúng sanh tánh. Lúc ra cải tạo vẫn tu hành theo sát Ngài như thường.

“Từ nơi Nhân Trí bất đồng với Phật Trí, từ cử chỉ tu tập của hàng Nhị Thừa cùng Nhất Tôn khắc biệt, nên chi càng khuyên giải bao nhiêu thì sáu Ông Đạo chung với Bà Chủ Chùa hiệp nhất. Bà vợ với sáu con một con đường phê chỉ trách móc đủ đường, đủ lối. Khi nghe Ngài là Phật, khó tin càng thêm tăng cường càng thêm diễn hành đủ thứ lớp. Ngài chưa biết nói hơn, vì nhận định bất đồng, nên mới phát sinh phê chỉ, mới có những chuyện rối rắm. Đối với hàng tín chúng có bậc nhận định đặng còn có bậc vẫn mơ màng khó hiểu Diệu Dụng Đức Ngài giữa thời Hạ Lai Tận Độ, nên Ngài mới làm bài thi nói lên đối với Ngài có hai trách nhiệm. Một là CHỈNH TRANG PHẬT ĐẠO. Hai là TẬN ĐỘ HẠ LAI.” –T.V.

Sáu con của Ngài thuộc Nhân Sanh Trí cùng các bậc tu Nhị Thừa nhận định khắc biệt với Phật Trí nên: Con và vợ Ngài không tin Ngài là Phật lại còn tìm đủ mọi cách ngăn cản sự Diệu Dụng của Ngài mỗi lúc càng tăng cường làm vang nổ khắp thành phố Nha Trang ai ai cũng nghe cũng biết. Còn Chân Phật Tử Ngài hàng Nhị Thừa sợ quá trốn và bỏ tu gần hết.

Trong số này phải kể trên 10 vị Tôn Giả quen tu xuất gia nhiều đời kiếp không chịu nổi Phi Tướng cũng lui về am cốc ở tư gia. Hàng Hộ Pháp rớt cũng nhiều. Đó là thời Hạ Lai Lạc Pháp Ngài thị hiện tận độ chúng sanh, làm cho chúng sanh nhận định được lối tu sai lầm ảo tưởng của Nhị Thừa đặng trở về lối tu Trực Giác kết quả vô biên xứ vào biển cả.

“Phần thì diễn hóa bên trong, phần mặt ngoài lại vào thời Hạ Lai Lạc Kiếp quá ư khó khăn đối với sự việc, cứ mỗi một gia đình bất ổn, hay một ngôi chùa sự sự việc, xảy ra mất thanh bình liền bị nhà nước đưa vào những vùng cấm địa, do đó Ngài và Tứ Chúng lặng yên, chỉ trông cậy đến Đại Lực Hóa Giải, Ngài thật biết nhưng chưa bao giờ nói.” –T.V.

Từ năm 1975 biến cố lịch sử miền Nam Việt Nam bắt đầu hỗn loạn, Ngài liền trực giác thấy cần phải khai mở Long Hoa sang giai đoạn cao đạo. Ngài mở Pháp Bất Tịnh ra đời cho phù hợp với Như Lai Tạng đang di chuyển cực mạnh đúng với Như Pháp.

Bậc tu nhạy cảm có con mắt Như Lai Nhãn Tạng mới thấy biết. Quá hiếm hoi mới có Chân Phật Tử thấy biết, còn phần Ngài vẫn yên lặng khai pháp cho phát hỏa náo động. Số đông bậc tu của Ngài ngơ ngác, ngỡ ngàng trước diễn cảnh hỗn loạn cả ngoài thế gian lẫn trong đạo. Cùng thời gian này việc gia đình, việc trong Chùa có xảy ra ồn ào, lộn xộn liền bị tổ dân phố báo cáo, tức thì khóm phường cho đi kinh tế mới, sống trong cái tử trước mắt ai cũng lo sợ tự giữ gìn bản thân và gia đình.

Ngài không dấu, lại mở cho tất cả thấy biết Pháp Bất Tịnh có vợ bé nên con, vợ Ngài trổ đủ diễn cảnh A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục chống lại cha, chồng. Có lắm lúc cùng đường hết phương hóa giải, Ngài phải trông cậy vào công năng, công đức đã tích lũy trong vô lượng kiếp gọi là Đại Lực làm an lành. Chỉ Chân Phật Tử tình thâm, cao hơn là tình thức mới cảm thông cùng nhau che chở cho qua từng giờ, từng ngày để không bị chính quyền đưa đi kinh tế mới hoặc nông trường.

Pháp diễn như thế, Tôn Giả, Hộ Pháp không có ghi tên ở phần trước sợ quá chạy trốn, sợ bị vạ lây nên bỏ mặc Ngài chống đỡ.

Chính Ngài khai thị tôi nghe như vầy: “Sau này khi Chánh Pháp Long Hoa ra đời nhiều Chân Phật Tử của tôi đã bỏ trốn, họ sẽ huênh hoang lớn tiếng vỗ ngực xưng tên là học trò Phật Di Lạc. Họ sẽ ngồi nói dóc nhưng lại thuyết pháp rất hay, pháp bị giác. Ông nhớ loan truyền cho nhân sinh đừng lầm lẫn những kẻ nói Lý mà Sự bỏ không hạnh nguyện.” –T.V.

Tứ Chúng thường về thân cận bên Ngài, khi Ngài ngồi im lặng, lúc Ngài hóa giải chấp mê, Ngài chỉ dạy không thiếu sót, ngặt vì trí tuệ và trình độ chưa nhận lãnh được hết. Ngài xem Tứ Chúng không khác mấy đàn con. Ngài thường nói:

Tôi vui khi các ông thọ lãnh Bảo Pháp, Tôi thích khi các ông hóa giải mê lầm, vì thế nên Tôi có bài thi...

...Thiện chân tử là nguồn an ủi
Pháp Tạng nầy chung buổi ấm êm
Miễn sao dưới mái gương thiềm
Chung vui toàn giác nỗi niềm tôi mong.






Lúc gia đình Ngài đang diễn cảnh vang rền, Chân Phật Tử nào quyết tâm tu theo Ngài cầu Tri Kiến Giải Thoát đều được dạy tỷ mỉ không thiếu sót. Nhưng không phải bậc tu nào cũng nhận lãnh thông pháp như nhau nên chia nhiều trình độ trí tuệ không đồng. Số Chân Phật Tử tín thành, thù thắng vượt bao khổ ải, khổ hải được Ngài chỉ đạo hóa giải mê lầm mà tri đạo, có bậc giác ngộ, có bậc hoàn toàn Giác Ngộ.

Sau cùng chỉ còn Thiện Chân Tử là niềm vui của Ngài vì có bậc đoạt Giác Ngộ đến Toàn Giác. Nghe lời Ngài nói, xem đến tình thi Tứ Chúng Ái Kính vô cùng không có bút mực nào kể nổi.

Có một hôm Ngài ngồi thư thả,
Chúng dâng trà, Ngài tả thi thơ,
Anh em Đạo Chúng chực chờ,
Ngài cười vui vẻ, lặng lờ trao thi.
Chúng Tôi muốn nói những gì...
Ngài liền giải đáp bài thi vang rền.
Sáu ông Đạo, Sáu con tên,
Có thêm bà vợ, vang rền Thất Sơn.
Khi bấy giờ Tứ Chúng đứng lên,
Đọc tuyên sáu Đạo sáu tên Thi rằng:

KHÁNH tận Nhân Sinh chẳng nói năng.
TƯỜNG chưa Minh đạt, nổi lôi phong.
ÂN thường Vân Lệ rơi tơi tả,
OANH luyện trùng dương, khắp Tứ Phương.
XOA dịu cảnh tình, chiều nắng dịu.
THU MINH Vương Đế trổ an bang,
HIẾN thân Tam Thế, Tiên Thần chứng.
Dâng quả KIM LÊ, Pháp BẢO ĐÀN.
Ấn Chỉ III
Dưới Sự Nhận Định Bất Đồng
–T.V.

Khánh tận nhân sinh chẳng nói năng. Người con gái đầu của Ngài bị câm từ khi mới còn nhỏ, lớn lên cuộc sống lăng nhăng trốn cha mẹ, không khuyên bảo được. Cô Khánh là biện minh cho Địa Ngục môn.

Tường chưa minh đạt, nổi lôi phong. Người con trai thứ hai của Ngài tên Tường không hiểu việc làm của cha, chưa thông đạt Diệu Dụng của Phật chính là cha mình, làm Ngài và Tứ Chúng phải khổ lụy. Thuộc Súc Sanh Pháp hay phát sinh gây bất ổn.

Ân thường vân lệ, rơi tơi tả. Người con trai thứ ba tên Ân thấy cảnh gia đình bất ổn thường nóng giận khóc la gào thét, đập phá. Biện minh A Tu La.

Oanh luyện trùng dương, khắp tứ phương. Thường đi đây đi đó hoặc đến nhà bà con thân nhân than phiền việc gia đình. Thuộc Ngạ Quỷ, là người con gái thứ tư trong nhà tên Oanh.

Xoa diệu cảnh tình chiều nắng diệu.
Người con gái thứ năm tên Xoa thường an ủi mẹ. Thuộc Nhân Pháp.

Thu Minh Vương Đế trổ an bang. Thu Minh là con gái út thuộc giới Thiên trong nhà. Sau khi khai Long Hoa nổ vang rền, đường Đạo trong Tứ Chúng đã có bậc đoạt kết quả. Sáu người con nêu trên tiêu biểu cho Lục Đạo.. Đối với Thế gian Ngài Diệu Dụng làm cho thế giới tránh nạn thế chiến thứ ba không còn sự đe dọa tàn phá của hai phe Tự Do và Cộng Sản.

Tuy Ngài không phải vì vua nhưng ẩn danh không khác vị Minh Vương của Thế Giới. Còn Đạo tận thành Chánh Quả Phật. Đạo Đời song toàn hợp nhất. Thật xứng đáng là vị Phật thừa kế đạt danh hiệu Thế Tôn.

Hiến dâng Tam Thế, Tiên Thần chứng. Hiến là tên người vợ của Ngài. Việc Hộ Pháp của bà trong gia đình cho Ngài được khỏe là dâng Tam Thế, được Tiên Thần chứng minh, sau hết kiếp được thoát sinh về nơi cảnh giới ấy mà an hưởng.

Dâng quả Kim Lê Pháp Bảo Đàn.
Đạo được kết quả Long Hoa Hội Thượng đem đến Chánh Giác tức Pháp Bảo Đàn. Tứ chúng đọc tụng Thi xong đồng thanh đảnh lễ ra về. Tôi còn nhớ Đức Ngài thường diễn cảnh, từ nơi tánh này qua tánh khác mà mãi luôn luôn Ngài nói đó chính là Diệu Dụng Phật Tánh, tôi thắc mắc nghi ngờ càng nghi ngờ thêm lên mãi, chỉ vì tôi tu trì vẹt phá Vô Minh phơi bày Phật Tánh, tôi tin Phật Tánh là một tánh toàn thiện, toàn thuận, nếu hơi nghịch tôi quá ư khó chịu. Có một hôm tôi đến đảnh lễ Ngài bày tỏ những điều tôi chưa nhận định đặng, Ngài mỉm cười nói:

"Ông hãy nghe Ta nói, rất có lợi từ đời nầy cho đến đời sau nhận định thế nào là PHẬT TÁNH. PHẬT TÁNH chung gồm tổng quát tất cả Tánh nơi Chúng Sanh Tánh đang thọ chấp, không phân biệt Tốt Xấu Thiện Ác, Tịnh cùng Bất Tịnh gọi là Phật Tánh Nhất Tôn. Nhận được Phật Tánh thật khó nghĩ bàn. Phải tu sửa, cổi giải thực tế áp dụng trong đời sống mới nhận Chân Lý được. Xem kinh, học, nghiên cứu không hạnh nguyện, trụ nơi Lý chẳng phải Phật Tánh thực thể.


Phật Tánh không khác mấy với kho tạng hàm chứa tất cả Bảo Châu đủ màu sắc, đủ hình thức, đủ các yến sáng đen, trắng, vàng, đỏ... Từ khi Tạng tung lên trời trải khắp Như Lai, kẻ chưa tỏ lấy mỗi một hạt châu đến vài hạt châu theo ý mình muốn, cho đó là Bảo Châu. Còn ngoài ra chẳng phải là Bảo Châu, kẻ ấy nhận như thế, là Chúng Sanh Tánh, còn bậc thu nhiếp bá thiên vạn tánh, Vô Lượng Vô Biên Tánh chung gồm Vô Thượng Vô Đẳng Tánh Chánh Giác Phật Trí. Vì sao? –Vì tất cả thảy đều là Bảo Châu đâu có khác? Tánh nó vốn như tánh phát sanh ra từng lớp lang, từng giai đoạn trở lên vốn tánh Như Như có gì lạ đâu mà ông phải phân biệt đến dị biệt tánh nầy cùng tánh khác." Tôi nghe vô cùng mừng rỡ, tôi liền đảnh lễ xưng tán Đức Ngài đã ban cho Tôi Bảo Châu vô tận.

Lắm bậc tu đạt được chân lý vội vàng xưng Phật bị Phật Giới. Hãy thực hiện thực tiễn theo vết chân Ngài vừa đi, cùng đồng hành đồng sự với Bồ Tát Ma Ha Tát đặng hy vọng vào đúng đường Nhất Tôn. Lúc bấy giờ nhìn tôi Ngài nói:

"Ta đến thời Hạ Lai Tận Độ sự mê lầm Chúng Sanh đưa về Phật Tánh Chánh Giác. Nếu bậc nào nghe Ta tin Ta đứng nhìn Ta bằng phương thức nầy hoặc phương thức nọ liền đặng Tri Kiến Giải Thoát. Bằng cứ mãi nhìn, mãi nghi chấp thì đến Ba Trăm Năm Chục Năm Sau, Ta mới thị hiện để chứng minh Tận Độ."
nói xong Ngài truyền đọc:

Chừng nào trái đất rẽ đôi.
Hai hàng thiên giới ta ngồi chứng minh./-