–“PHẬT ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh vũ trụ. BỒ TÁT có quyền chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng.″

19. TỨ HIỆN thông đạt HIỆN GIÁC

16 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 9462)
19. TỨ HIỆN thông đạt HIỆN GIÁC
So Vũ Trụ với CON NGƯỜI, đứng về Tướng thì Vũ Trụ rộng vô biên. Con người sống trên quả đất, quả đất với vũ trụ thời lại quá nhỏ, thì con người với vũ trụ nó bé nhỏ như thế nào? Thế mà lấy một Hạt Cát Đạo Phật mang so với Quả Đất nói Đồng Đẳng như nhau về Thể Chất. Nên Ấn Chỉ Con Người cùng Vũ Trụ Thể Tánh như nhau không hơn kém. Phật Đạo gọi vũ trụ là Bản Thể, là nguyên bản. Còn thuyết minh về Thể Tánh thì, tất cả Chúng Sanh hay Chúng Sanh Tánh cùng Chư Phật đồng đẳng NGHE THẤY BIẾT.

Đối với Bậc Giác Ngộ thành Phật, vốn từ nơi ĐỜI, từ trong con người phát huy Nguyên Lý Lý Chân Bản Thể Vũ Trụ tu đạt thành PHẬT, cho nên nơi NGHE chốn THẤY và TẬN BIẾT bao la trùm khắp, vô biên tận tận vũ trụ đồng với Bản Thể, CHÁNH GIÁC.

Còn chúng sanh nơi Nghe, chốn Thấy và Biết có từng khía cạnh hạn lượng tùy theo mức độ trở thành bất đồng nằm trong Bản Thể Vũ Trụ mà lệ thuộc Pháp Giới Bị Biết, Bị Nghe, đồng Bị Thấy. Do đó, chưa đầy đủ Công Năng Đức Độ thu nhiếp Vũ Trụ Tam Thiên, làm thế nào HIỆN GIÁC? PHẬT ĐẠO dạy BA TÂM NĂM NGUYỆN, PHẬT PHÁP vô biên thề nguyện HỌC. VÔ THƯỢNG ĐẲNG CHÁNH GIÁC thề nguyện THÀNH, chủ yếu khai hoang TÂM CHÍ rộng rãi NGHE THẤY BIẾT BỒ ĐỀ TÂM không thiếu sót, TẬN GIÁC.

Nhưng lạ thay! Đọc tụng rất rõ ràng, lời VÀNG nơi THỆ NGUYỆN, nhất tâm không thiếu sót một Từ Ngữ nào, mãi tu hành chưa tiến bước, do đó PHẬT nói:Chưa bao giờ xem Kinh Pháp, vì sao? Vì chưa bao giờ lãnh hội đặng Kinh, thì làm thế nào KHAI HÓA Vô Minh qua từng lớp, để TỰ BIẾT những gì chưa đặng biết, mà nay đặng biết. Học những gì chưa nhận nghe mà nay đặng NGHE NHẬN, đến TỰ BIẾT CHÂN GIÁC.

ĐỨC THẾ TÔN còn tại thế, NGÀI tường tận con người với Vũ Trụ. Chúng Sanh cùng Pháp Giới. Quả Đất với cành cây, cho đến con Ruồi cùng Vị Trưởng Giả quá ư bất đồng từng lớp lớp. Duy chỉ có THỂ TÁNH đồng đẳng NHƯ NHAU, THỂ TÁNH chính là NGHE THẤY BIẾT, tuy nó có rộng hẹp lớn nhỏ nhưng đều Nghe, Thấy và Biết sẵn có như nhau. Vì sự bất đồng kia nên chi chia ra từng tuổi thọ sống chết sanh tử khác nhau trong mỗi lớp lang thứ bậc, gọi là TÚC MẠNG THÔNG.

NGÀI thật tỏ rõ Mạng Sống nơi con người chưa đặng bao lâu thì Viên Tịch. Còn CHÂN LÝ lại bất tận vô biên, Chúng Sanh thì lớp lang Trí tuệ có hạn lượng, sự sanh tử thêm nơi dời đổi từng kiếp đổi thay, làm thế nào cho tất cả Tứ Loài Tận Giác? NGÀI mới sắp xếp minh thuyết chỉ dạy tường Tận thứ lớp, hóa giải đủ môn, 49 năm khai hoang cái BIẾT cho chúng sanh đối với BẢN THỂ Vũ Trụ, vạn pháp di chuyển, TÂM SANH lầm lạc, chúng sanh tứ loài chưa thấm vào đâu, chỉ gieo trồng hạt giống Như Lai vào Tâm khảm, trở thành TAM TẠNG KINH, NGÀI thật biết nó chưa đủ với những bậc bê trễ, kém nhận, chớ nó đầy đủ với những bậc tỏ biết lãnh hội để mà tu. NGÀI là Bậc VÔ THƯỢNG CHÁNH GIÁC, TỎ THÔNG TẬN THÀNH với Bản Thể Vũ Trụ, lời Vàng kia chưa thể thọ lãnh của tất cả chúng sanh, nên NGÀI nói: TA thuyết pháp, lời TA chỉ dạy, không khác mấy với lá cây rừng vô lượng vô biên, mà TA chỉ nắm lấy một nắm lá rừng dạy các ông thôi, cốt để cho tất cả nhận chân được vô biên, trãi qua các thứ lớp tận biết mà GIÁC NGỘ. Chính BẢN NĂNG nơi NGÀI đã tận thấu Vũ Trụ, Tận Độ chúng sanh, tận dụng tất cả rừng lá sử dụng làm thành Môn Pháp cứu độ mà những Bậc Tín Tâm chỉ hưởng nhận mới một nắm lá rừng, lần tu đến tận Giác. Chính các Chư TỔ ra đời kế tiếp, các Ngài cùng một lý trí bổ sung, một là những điều chưa giải nói, hai là tùy thời ứng dạy hóa giải cho Nhân Sinh, lời Chư TỔ toàn lời TRỰC NGỘ thật chân, lời Trực Ngộ chân thật đều là lời thừa hành Chư PHẬT diễn nói hay Chư BỒ TÁT hiện hành. Bằng lời tham vọng dục kiến tự ngã nói ra, thảy đều lời Ma Ba Tuần giả thuyết.

Mỗi một khi Chư TỔ đăng đàn minh thuyết. Tín Chúng Tin Vâng lãnh hội, thời những Bậc nầy đã từng trãi qua trăm cay nghìn đắng, tuổi thọ nơi Ngài đã gần xế chiều một kiếp, thành thử có bậc giải phân nhiều ít phải theo thời cuộc thăng trầm trong nền tảng Tôn Giáo của thế nhân ưa chuộng hay chưa ưa chuộng mà cứu độ. Đối với Chư TỔ cùng ĐỨC THẾ TÔN, duy nhất có một lòng tận tình cứu dộ, tận dụng hết khả năng của mình giúp đỡ cho Tín Chúng đủ mọi phương thức không bao giờ nhàm chán, không có óc Địa Phương, do đó mà không Thọ Ngã. Chẳng khác nào: Bậc Đại Lương Y cứu chữa con bệnh không phân biệt giai cấp, chuyên ròng phương thức cứu chữa mà thôi.

Đến thời Hạ Lai cùng một tấm tình duy nhất tận dụng hết toàn năng, nhưng thời kiếp chia thành hai lối, vì sao? VÌ THƯỢNG SANH. HẠ KIẾP, con người thời Thượng Sanh ưa chuộng Danh Giả Hiền Lành mộc mạc. Thời Hạ Kiếp cần lấy cái sống sự sống hiện tại, lại khôn ngoan, phần Danh Giả trở thành Danh Nghĩa Tài Năng thực tại, chia ra nhiều tư tưởng hiếu kỳ, từ ngành Khoa Học cho tới tài phép thần thông, thuyết minh phải biện minh theo lời truyền thuyết. PHẬT ĐẠO, nếu như bậc chưa THÔNG ĐẠT TẬN THÀNH, chưa TỨ HIỆN liễu đạt Vũ Trụ với con người cùng hàng TỨ THÁNH, làm sao minh thuyết chứng từ để mà diễn đạt? Đứng nơi Danh Nghĩa con người thời danh nghĩa TỰ TÔN Hiển Đạt. Còn Danh Nghĩa nơi PHẬT ĐẠO lại là Danh Nghĩa Tận Tường Tận Giác Bản Năng, do đó mà nhiều Bậc tu đạt tận tường chưa gặp đặng thời TỰ TÔN hiễn đạt, đành phải lặng lẽ nhập Niết Bàn.

Khó khăn môi thuẩn thay! TẬN ĐỘ Thời HẠ LAI, Đạo PHẬT những bậc tín tâm, thâm hiểu với từng Bậc tối đa hạn lượng, vạn pháp thao diễn vô biên không hạn lượng, nhiếp Tâm tâm vẫn tuôn mãi từng dòng, bằng an cư, chưa tận thấu, thời cái sống lẽ sống nơi Tinh Thần kia nó chẳng khác nào nương nơi cánh nhạn mà sống. Những bậc Tín Thành lần theo TỎ TÁNH kia, hãy an nhiên tu học chớ nên nản chí nãi lòng, tuy nhiên tầm hiểu biết nó có hạn lượng, tinh tấn thu nhiếp không ngừng, thời gian đầy đủ CÔNG NĂNG đương nhiên GIÁC NGỘ. Con người cùng Quả Đất, cho đến Vũ Trụ bao la nó có khác chi nhau, quả đất nó vẫn nương theo đường kính lần lượt quay tròn, lý sự tuần hoàn nhịp nhàng của nó không sai chạy. Còn Vũ Trụ vận chuyển tuân hành theo Thời Khóa Biểu, đo lường nhiệt độ chẳng tách ly, Con người thì thay đổi, đổi thay từng cơn nơi đầu óc, nó nào phân biệt dị biệt bản chất tánh hiểu biết chi đâu, đồng hành, đồng sự Vũ Trụ với Con Người cùng Quả Đất đồng đều qua từng giai đoạn, được gọi là: HUYỀN CƠ vận chuyển, THẾ GIỚI diễn tuồng, con người sống theo Thời Cuộc, mặc dù nó khác nơi hình thức thời thế, từng lớp người đổi thay Sanh Tử, nhưng THỂ TÁNH Bổn Lai nơi con người cùng Vũ Trụ như nhau, đâu sai khác. Phần con người nhỏ bé, hạn lượng hiểu biết từng phân ly tỉ lệ, do nơi hiểu biết như thế mới có quan điểm theo thời kiếp của mình mà tự hào, tự mãn nên mới TỰ SANH cho đương thời nơi mình đang sống là thời HIỆN ĐẠI VĂN MINH. Nào có ngờ đâu, thời Văn Minh đã sẵn có từng thời xa xưa ngày trước?

Bậc CHÁNH GIÁC, chính là Bậc đã tận tường diễn hóa Vũ Trụ Nhân Sinh, chia ra từng lớp lớp THỌ SANH THỌ BÁO THỌ NGHIỆP, THỌ CHỦNG mỗi nơi nơi, sự đòi hỏi than van vui mừng sướng khổ qua từng giai đoạn Cá Nhân Cá Thể, Cá Tánh của mỗi nơi, của mỗi con người đang đòi cái sống, đang lo chỗ sống cùng sự sống, chính nó vẫn sống nhịp nhàng theo Vũ Trụ mà thôi.

Có những vận chuyển thời cơ, nhịp nhàng Vũ Trụ với con người mới diễn tuồng Thượng Sanh Hạ Kiếp. Chư PHẬT Thị Hiện tùy thuộc Thời Cơ, đồng hành đồng sự với tất cả chúng sanh nơi hiện kiếp mà cứu độ Tứ Loài, nơi cứu độ nầy chính là lời TRỰC NGỘ hóa giải lầm mê, tùy mỗi một con người hay hàng hàng lớp lớp mà hóa giải, cốt khai hoang nơi lầm nhận đến thông đạt tận tường TRỰC NGỘ mà CHÁNH GIÁC. Nhưng thời cuộc Hạ Lai Thượng Kiếp thuyên diễn khác nhau, mà nhất thiết TÔN CHỈ MỤC ĐÍCH thảy đều duy nhất, do đó mới có TỰ THÁN như sau:

THẾ TÔN Ngài thấu chăng Ngài?
THƯỢNG sanh HẠ kiếp, diễn hai tấm tuồng.
Ngài THÁI TỬ triệu đời vang tiếng.
Tôi CƯ NHÂN bốn biển nào hay.
Vai mang bao đảy ăn mày,
Khai Hoang TỨ HIỆN, phơi bày Tình Chung.


THẾ NÀO LÀ TỨ- HIỆN HIỆN-GIÁC?

TỨ HIỆN. HIỆN GIÁC có Bốn Thể Cách hiện.
- Một là: ỨNG HIỆN.
- Hai là: TRỰC HIỆN.
- Ba là: CẢM HÓA HIỆN.
- Bốn là: THẬT HÀNH THU NHIẾP HIỆN.

ỨNG HIỆN là THỂ TÁNH vạn pháp hiện trùm khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, tùy nghi, tùy thuận hiện, mà ỨNG HIỆN nên mới hóa sanh Sơn Hà Đại Địa, Tam Giới, Tam Thiên, Cõi Trời, Cõi Tiên, cùng lớp lớp không thiếu sót. Nó từ nơi Tư Tưởng hiện, nơi TƯỚNG hiện, nơi THỨC hiện, nơi CẢM hiện, nơi XÚC hiện, nơi HÀNH hiện, nơi HỶ hiện, nơi NỘ -ÁI -Ố, THƯỜNG -LẠC -NGÃ -TỊNH hiện.

Nếu như: HỶ là VUI , xóa tất cả buồn khổ để mà Vui an trụ làm gốc, thời Vui kia liền Ứng Hiện chuyện phải trái chi cũng vui cười không ngớt trở thành loạn trí. Bằng NỘ là GIẬN để trụ xứ, nó liền Ứng Hiện khởi sanh NỘ NẠT tất cả mọi sự việc, hung cường đủ hoàn cảnh. Bậc tu hành quan điểm trừ Tà, diệt Ma phải sa vào Ngoại Giáo. Còn nặng về ÁI Ố làm nơi Thương Ghét Thù Hận Mến Yêu làm nơi an trụ nó liền Ứng Hiện Ái Nịch, Ái Dục cho đến nổi va chạm tình thương tự sanh khóc kể, tự khóc chúng sanh lâm vào Loạn Não Điên khùng chạy la than khóc. Ố hiện là hiện tượng Ganh Tị, Hiềm Tị, lúc đến giai đoạn an trụ nó liền Ứng Hiện Chống Trả Hận Thù. Bốn Tướng Ứng Hiện nầy, thuộc về TRẦM TƯỚNG ỨNG HIỆN, những bậc tu hành non yếu thường vấp phải bốn tướng ứng hiện nầy.

Còn THƯỜNG -LẠC -NGÃ -TỊNH, nó lại có chốn Thăng và Trầm như sau: Bậc tu hành tu đạt đến Thường Chân, Thường Còn Bất Biến mà an trụ chưa Thông Đạt Tỏ Thông liền Ứng Hiện Hoan Lạc, do nơi Thọ Ngã mà Tịnh chưa rốt ráo Tận Thành, đó gọi là Thăng Trầm Ứng Hiện.

Đối với Nhân Sanh Tứ loài, thường sống với CẢNH sanh TÌNH. Có Tướng nương theo Tướng mà sống. Bằng không Tướng thời biết lấy đâu nương tựa đặng để sống, thành thử sống nơi LINH CẢM HIỆN mà sống, gọi là Tư Tưởng Lý Tưởng Hiện, Suy Tưởng Hiện, nó không ngoài ý thức, trí thức, cùng với Tìm Thức Nên Hư, Thiệt Giả, Tốt Xấu, Được Mất trong quan niệm hiện. Lúc nó đang thao diễn chưa trụ xứ gọi nó là CẢM HIỆN, đến khi HÌNH HÀNH trụ xứ mới cho nó là ỨNG HIỆN, do đó mới có danh từ: HIỆN VẬT, THỰC HIỆN hay HIỆN HÀNH HIỆN DIỆN.

Sự Thấy Biết của tất cả Tứ Loài, thấy biết nó không ngoài chốn hiện bưng bít che đậy, mới có Cảnh thời có một, nhưng Tình lại hóa ra nhiều nơi, tùy theo quan niệm giai cấp trình độ hiện. Nghĩ như thế nào. Suy như thế nào, tính như thế nào liền hiện theo không sai chạy. Khi đầy đủ Công năng Đỉnh Đạt thì nó Hiện Giác. Lúc Lầm Mê sai chạy đảo điên đọng vọng, nó liền hiện mê hoài vọng ước ao gọi là Mộng Tưởng điên đảo.

Trên con đường tu Phật, phải tu đến Tri Kiến Phật mới nhận thấy vết chân của Phật mà tu. Bằng tu chưa Tri Kiến Phật thì chẵng bao giờ thấy vết chân nơi Phật mà tu, thì làm sao Chánh Giác? Mỗi một khi chưa hiểu, chưa biết thì làm thế nào kết quả con đường tu Phật, do đó nên sự lãnh hội Phật Pháp tối cần cho các bậc tu hành thọ pháp chính là món ăn bất diệt vậy.

Bậc Chánh Giác tường tận Thể Tánh, tận tường nhiễm trước nơi Chúng Sanh Giới cầu Tri Kiến Phật, sự tu cầu thiết tha thành khẩn, nhưng ngặt thay dùng Ứng Hiện tu cầu làm sao nhận nhìn ngón tay Phật, nên Ngài nói:

Nhược Dĩ Sắc Kiến Ngã.
Âm thanh cầu ngã.
Thị Nhân Hành Tà Đạo.
Bất năng kiến Như Lai.


Bằng dùng Hiện Sắc thấy TA hay Âm thanh cầu Ta, sự thấy làm nơi nhân sinh sai biệt, không thể nào thấy Ta, vì sao? Vì Như Lai không có chỗ nào gọi Đi hay Về, duy chỉ TRỰC HIỆN mới nhận thấy TA mà thôi.

TRỰC HIỆN và ỨNG HIỆN vốn nó kèm nhau, nếu là bậc tu hành biết sử dụng Trực Hiện làm một bước tiến từ Thế Gian đến Xuất Thế Gian, từ nơi Hữu Tướng đến Vô Tướng đều công dụng lấy nó, để kiểm soát sáng soi mở mang Trí Tuệ, nó cũng gọi là một con đường hóa giải chấp mê lần tiến Tri Kiến Giải Thoát.

Những bậc tu Đại Thừa tự tánh tỏ tánh, khi tư tưởng phát hiện suy tưởng không ngừng, tự lòng ham muốn, nghiệp thức đảo điên, liền công dụng TRỰC HIỆN đo lường nghiệp thức, hóa giải lòng tham, làm như vậy, tu như thế gọi là:Nương theo Vạn Pháp Tỏ Pháp.

Những bậc chưa hiểu, chưa biết sử dụng gọi là chưa tu trên con đường giải thoát thì con đường tu hành thảy đều nương nơi HIỆN mà cầu báo, cấu tạo vạn pháp tu cầu vạn pháp Ứng Hiện Công Quả cho mình, do đó nên chi Đạo Phật mới có muôn hình vạn tướng. Nơi muôn hình vạn tướng thảy đều cầu vái phụng thờ Chư Phật Ứng Hiện ban cho, đặng gọi là Sắc Tướng Âm Thanh Cầu Ngã đã nói trên vậy.

Trên con đường Tu Phật, đối với Phật Đạo tu như thế nào vẫn kết quả từng môn, không ngoài Thiện Căn Thiện Chí. Có những bậc biết sử dụng sáng soi, cấu tạo nung đúc Trực Hiện về với chính mình Tỏ Tánh, nhưng thiếu căn bản Đạo Đức vẫn vương vào sai lạc Thiện Chân, không khéo tu hành thường đi trên con đường Dục Kiến hay Kiến Dục cũng thế. Nơi Thiện Căn Đạo Đức là Cơ Bản CẢM HÓA HIỆN Dung Thông, còn Kiến Dục không Thọ Ngã vẫn là nguồn gốc Tự Mãn trong con đường Ứng Hiện, Dụng Tướng mà cầu Sắc Tướng đi trên con đường Tiên Đạo. Thần Thánh Đạo chớ chưa rốt ráo Thành Phật.

Một trong hai môn Ứng Hiện và Trực Hiện nó liên hệ nhau, không Lấy cũng chẳng Bỏ, không nặng hay nhẹ mỗi một bên nào, vì sao? Vì Ứng Hiện là TƯỚNG còn Trực Hiện là TÁNH nên phải song tu. Bằng lìa Tướng Ứng Hiện áp dụng hóa giải Trực Hiện, hiếm bậc Phi Đạo Suốt Đạo thường vấp phải Tăng Thượng hay Chân Không đến nơi Không Chấp bị Chấp Không đó chính là giữa thời Hạ Lai thường lâm vào nơi Không Chấp Chấp Không trong con đường Chứng Tu mơ màng chưa lối thoát.

Nếu Nhất Tâm về Tướng Hiện, thời tu đến Thường Tưởng bước qua trạng thái Định Tưởng tu luyện Thần Thông tự chính mình chưa tỏ ngộ phải riêng sống trong trừu tượng mà cầu chứng Hữu Vi sa vào Ngoại Giáo.

Hai môn nầy rất trọng yếu trên con đường tu hành, vì sao? Vì Ứng Hiện về HỮU LẬU Công Quả. Còn Trực Hiện về VÔ LẬU BÁT NHÃ thuộc về Công Năng. Lại nữa:Trực Hiện Tam Muội Pháp Môn, còn Ứng Hiện thuộc về Định Tưởng Sắc Pháp Thần Thông diễn đạt, do đó mà hai môn nầy không Cấu mà chẳng có Ly. Nếu Cấu nắm bắt gìn giữ hay Ly là xa lìa vứt bỏ thảy đều sai lạc.

Các bậc tu có lý trí nhất tâm, thiết tha tâm tu cầu giải thoát. Sự tu hành lấy bỏ chưa thông nơi Tăng Giảm chưa Hoàn Mỹ, nên tình trạng nặng nhẹ chẳng Quân Minh thành thử khó khăn Hiện Giác, do đó nơi Kim Cang Kinh Phật dạy các ông hãy lìa Bốn Tướng Giải Thoát. Thế nào gọi là Bốn Tướng? Thiên Tướng. Nhân Tướng. Chúng Sanh Tướng cùng Thọ Giả Tướng gọi là Bốn Tướng Giải Thoát. Như thế vẫn chưa đủ. vì sao? Vì nơi Hiện Giác chớ chưa hẳn rốt ráo tận thành mà Chánh Giác, nó rất cần cho Trí Tuệ dung thông bao dung chung khắp nên phải tu trì pháp môn CẢM HÓA HIỆN, thực hành trong bước đường đã trãi qua nơi Ứng Hiện và Trực Hiện cốt Kiến Tạo Tự Lợi cùng Tha Lợi cho tất cả chúng sanh, tất cả Tứ Loài từng lớp đặng Tri Kiến Hoàn Mỹ, thời chính mình Sở Đắc Chánh Giác nơi Căn bản THẬT HÀNH CẢM HÓA HIỆN tương song CHÁNH GIÁC.

Hay thay! ỨNG HIỆN khắp Trùng Dương
TRỰC HIỆN là Môn Pháp Cúng Dường.
CẢM HÓA HIỆN HÀNH thu nhiếp hiện.
THẬT HÀNH TẬN HIỆN thấu Khôn Phương.

NAM MÔ TỨ HIỆN TỲ LÔ GIÁ NA PHẬT
TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
Kỷ niệm mùa Trăng Tròn Tháng Tám