- 1. ĐỐI VỚI VŨ TRỤ
- 2. NHÀ THIỀN SƯ KHI TÌM ĐẶNG...
- 3. CHÂN LÝ LÀ MÓN ĂN THẬT THỂ
- 4. THIỀN SƯ HẠ SANH NĂM 1918...
- 5. DƯỚI MẮT THIỀN SƯ ĐÃ TỪNG SÁT THẬT
- 6. KỶ NIỆM MÙA KIẾT HẠ NĂM ẤT SỬU, 1985
- 7. KHI BẤY GIỜ THIỀN SƯ NHẬP XONG CHÁNH ĐỊNH
- 8. KỶ NIỆM NGÀY KHAI NGUYÊN PHÁP TẠNG, 12-1 BÍNH DẦN, 1986
- 9. TRÍ HOÁ LÀ CHÚNG SANH VỌNG TƯỞNG ĐIÊN ĐẢO
- 10. BẠCH THƯỢNG SƯ TRƯỚC KIA CHÚNG CON CHƯA RÕ VÔ MINH
- 11. ĐẾN NAY NHÀ THIỀN SƯ HIỀN TRIẾT
- 12. THIỀN SƯ VỪA TĨNH TỌA XONG...
- 13. BẬC NHẤT TÂM ĐẢNH LỄ....
- 14. BỒ TÁT GIẢI NÓI XONG ÊM LẶNG
- 15. HÔM NAY ĐÚNG BẢY NGÀY...
- 16. THIỀN SƯ TỪ MÁI CHÙA TÂY BƯỚC RA...
- 17. THIỀN SƯ TĨNH TOẠ XONG...
Đưa hai tay khoát lấy nước, rửa bộ mặt đã thức ngủ tọa Thiền từ đầu canh ba, đến cuối canh tư mới tỉnh, Thiền Sư nhìn về phía cây rừng lá cành, phe phẩy gió sương đưa, miệng lẩm bẩm: Có Tu Mới Có Chứng, Không Chứng Cũng Không Tu.
Phải chăng ta cho Vũ Trụ gió mây là Khách Quan, Vũ Trụ gió mây có đủ quyền cho ta là: Quan Khách. Bằng Ta rõ Vũ Trụ thì Vũ Trụ tỏ rõ Ta. Ta cùng Vũ Trụ đồng nhịp nhàng giao cảm, đó chính lẻ thường.
Bộ óc nơi Ta. Thân mạng của Ta, nó là giống gì? Ta chưa bao giờ biết rõ nó. Nó đâu cần Ta biết nó, nó chẳng cần biết Ta, nên Ta ngỡ nó là Ta, cho nó ăn hương vị đầy đủ, cho nó mặc sung túc chẳng thiếu chi, cầu nó gìn giữ trẻ trung sợ nó già nua sút kém. Nhưng chính nó nào đâu phải vậy. Nó là bộ máy ráp vần ghi nhận như nhiên. Ta có bổn phận phát ngôn thấy biết. Nó cùng Ta thảy đều Như Nhiên, phần nó đã giải thoát từ lâu, nơi Ta lại sống theo quan niệm, Thiền Sư nói xong cười xòa lải rải.
Thiền Sư đứng lên, quay về lều lá, tay nâng ấm trà, đã nung bằng rừng lá làm nước uống, lấy bình bát, trong bình bát có tách nhỏ, hớp một hớp nước dài chép miệng nói: Đúng như vậy. Có tu mới có chứng, có thực hiện mới hiện sinh. Bằng không thực hiện nào có hiện sinh, làm sao tận thấu. Khi hiện sinh phát sanh tường tận, mới công nhận chốn lầm sai, thì đâu còn hai nơi Tu Chứng?
Từ thuở nghìn xưa, Ta ngỡ Ta là con người làm vị Thiền Sư, đến sau lắc đầu Ta đang sống theo cái sống lập dị, khác sai liền tự hối. Nhìn nhận lý sự đảo điên hư dối, cho đó là thật chân, khai thác lần lần mới truy tầm chân thật, nên Ta phải tu.
Tu qua đường lầm lạc
Tu nơi chỗ đúng sai
Tu gấp bảy, gấp hai
Để quay về với một
Tự rõ mình bị cột
Đột ngột hiện sinh
Rành rành mới mẻ
Thiền Sư vừa suy nghĩ đến đây, yên lặng nhìn bầy chim ríu rít nhảy nhót trước sân, Thiền Sư đứng lên vươn đôi vai mĩm cười nghĩ tiếp: Phải rồi, phải rồi Đức Di Lạc đã từng nói nơi bài thi về trì giới, nhẫn nhục như sau:
Nếu người tri kỷ nên yên phận.
Dẫu kẻ oan gia vẫn cọng Hòa.
Miễn tấm lòng này không quái ngại.
Mười phương chứng đặng Lục Ba La.
Chính Ngài vẫn khâm mạng Trì Giới và Nhẫn Nhục bậc nào con người nào rõ biết Trì Giới, Nhẫn Nhục thảy đều là tri kỷ con đường vết chân của Ngài đồng hành thực tiễn, đến trùm khắp chứng tri.
Trì giới nó có trọng lượng cùng giải giới mở rộng đến nơi phi trọng lượng mà Sở Đắc. Đó là con đường Trì Giới Nhất Tôn cốt tu đạt đến Trí Tuệ Thiền Định. Trí Tuệ Thiền Định nó như nhiên xuất phát, như nhiên sáng soi, đến như nhiên trực giác, nó rất tường tận về thọ nghiệp, chủng nghiệp lợi hại từng cảnh giới, nơi thế gian cùng xuất thế gian rồng người, các loài ma quái, Tiên Thần Thánh Hóa, đó chính là từ nơi trì giới mới hiện sinh tường tận viên đạt Diện Mục Bổn Lai từng giới, khắp trong Vũ Trụ Thế Giới Tứ Loài, bằng chưa Trì Giới làm sao tỏ giới mà Viên Đạt.
Thiền Sư nghĩ đến đây, thì ánh mặt trời tia sáng, ngọn nắng vàng trải dài soi khắp núi đồi cây cỏ thấp cao bình minh sáng rõ. Thiền Sư đang ngồi chiếc ghế tre xinh nhỏ, êm bặt tựa như đang thọ Pháp Tổng Trì. Bỗng nhiên vỗ tay khen tặng, hay thay! hay thay! Bi Trí Dũng, Giới Định Tuệ là bao quảng bảo trì pháp môn Trì Giới Nhất Tôn Giải Thoát, chính ra Bi là mỗi một giới hay mỗi một bước đi, hoặc lời hứa phải gìn giữ cho tròn sự việc, muốn gìn giữ thực hiện cho tròn phải là những Bậc có Chí Dũng bằng chưa Trí Dũng tu đạt khó thành, khi Bi Trí Dũng thực hiện đặng mới tu đắc Giới Định Tuệ mà tròn duyên Trì Giới. Thiền Sư nhìn nơi hư không vô tận, buột miệng ứng thân rằng: Lạ thay ngón tay chỉ quá ư tuyệt tác, Ta đã từng quen thuộc Bi Chí Dũng, Giới Định Tuệ hằng ngày mà chưa hề thấu đáo, thì con đường giải thoát dù có học thuộc nó chẳng có nghĩa lý gì thâm nhập. Khi thâm nhập tận tường Tổng Trì Đà La Ni Tạng, mới tán thán lời chỉ giáo của Đức Thế Tôn Ngài đã xây dựng từ lớp lang cốt con người trở về Thể Chân Diện Mục, vì bổn năng con người đang lầm nhận Tạp Nhập mà điên đảo.
Thiền Sư nói tiếp: Mỗi một con người điên đảo, thì bá triệu thế giới con người lần đến Lý sự đảo điên, cho nên thế giới của con người mà con người đâu làm Chủ được con người, toàn hỗn hợp ma quái tạp nhập điều động con người phải chấp hành theo vọng loạn đảo điên, chính nó điều hành con người lạc lỏng tha phương do nó dắt dẫn quá nhiều điều vô lối, chưa bao giờ bổn lai con người ưa chuộng mà phải tuân hành, do đó con người có Thân Mạng có thế giới của con người mà cái sống nơi con người chưa bao giờ thoải mái là như thế .
Phật Đạo không chấp nhận hỗn hợp tạp nhập, mà con người lầm mê gánh chịu, mang lấy làm chính mình mới nói lên cần thức tỉnh rằng: Vạn Pháp Như Huyển, tạp nhập là chúng sanh như huyển, lại hình dung tạp nhập như bóng cây dưới nước, như tia sáng trong rừng không thực thể, chớ nên chấp nhận, vì chấp nhận bị mù quáng.
Con người với con người, khôn khéo đến đâu khó nói lên thế nào con đường Giải Thoát, chỉ có Bậc Giải Thoát mới bày rõ Chơn Tôn, biện bày Giải Thoát. Dù cho nhất tâm tu đạt, tin chổ giải thoát chăng, vẫn tin nơi quan niệm giải thoát bằng thể thức tuyệt dục ly thân cắt ái, xa lánh con người trần lao cấu nhiễm là giải thoát.
Chính Thân Mạng nơi Ta cũng đã từng lầm lẫn quan niệm như thế. Nhưng may thay: Nương nhờ Thiền Tọa tự tánh sáng soi, tỏ thông vạn pháp Như Huyển, nó vãng cùng lai nó sai hay đúng, nó dúng bóng hình, lộ trình mãi diễn, nhìn nơi tạp nhập, kiểm điểm vô biên, đến lúc Tọa Thiền mới hay tạp nhập, cho đến giờ phút này, giai đoạn hiện nay Ta mới hay Tín Hạnh Nguyện một sức mạnh Tự Tín vô cùng, nếu tu cầu giải thoát chưa Tín Hạnh Nguyện vẫn chưa xong. Vì sao? Vì chưa Tự Tín Bổn Năng nơi Công Năng thọ lãnh để thực hành hạnh nguyện thì chưa bao giờ giải thoát, bởi công năng khỏi vòng đai sanh tử, nó thay đổi của tạp nhập cản ngăn, là thành lăn tăn sóng gió thật khó khăn thành tựu.
Môi–thuẫn(*) thay! Trí người với giải thoát. Khi đang còn mê lầm tạp nhập, định hướng chỗ mơ màng, vọng kỳ xao xuyến, quan niệm đúng sai, sống theo cái sống cảnh sanh tình, chưa rõ đặng Tình đổi Cảnh. Tuy những con người ấy miệng đòi giải thoát, hoài vọng mong tu hành đến chí nguyện giải thoát. Nhưng lạ thay chổ giải thoát nơi họ ưa thích không tu mà giải thoát, chẳng chịu khắc phục bản thân mà mỏi mong nơi đến hình thành. Nếu gặp Ta, Ta bảo họ phải đứng yên xét lại bản thân, hoặc hóa giải họ sanh chướng đối, chẳng khác qua núi đồi mới đến nơi giải thoát, nào họ có nghe đâu đặng, dù nghe hiểu vẫn mơ màng, chưa nhận chân chi cả, nên chi họ:
Trơ trơ như tượng gỗ
Đổ đổ oán gật gù
Chỉ thích phá sương mù
Chịu tu nơi kỳ vọng
Thật ra con người, chưa hẳn nó muốn như thế. Chỉ vì nơi con người yếu kém, lại mang phải tạp nhập quan niệm nặng nề, nơi chỗ mê tín, Tự tín chưa phân nên mới phát sinh ngớ ngẩn. Thà nó như thế, được như vậy để nó tu, còn có thời gian vào Chánh Tín, hãy còn lại bổn chất con người nhiều hay ít về môn Đạo Đức Hiền Lành. Tuy những bậc nầy dại nơi con đường giải thoát, chính khôn chỗ hiền lành. Ngoan ngoản như Bụt. Thiền Sư cười xòa, lấy tay nhịp nơi đùi thoải mái.
Thiền Sư nghĩ tiếp: Kẻ tự tín phải lâm vào mê tín mà chẳng hay, thường nhân tự mãn trong cơn khôn dại, chỉ vì chưa thực hiện Chí nghĩ lành mạnh của mình. Còn phần tự tín của Phật Tử Chí Tôn vẫn chưa thực hành Hạnh Nguyện, khai thác trình độ tu học của mình, thì làm sao thọ trì bảo pháp mà Tự Tín? Dù cho họ lầm nơi Tự Tín đi chăng nữa, vẫn tự tín trong vòng học vấn thuyết giả chẳng minh Chân nơi Tam Tạng Kinh mà thuyết giả, trở nên đảo thuyết, thực ra chưa bước nơi chân tâm thực thuyết, thời làm thế nào bước vào con đường giải thoát vẹn toàn. Họ làm như thế, tu như vậy, gọi đó chính là Năng thuyết bất Năng hành.
Khi nhận đặng tự tín, bảo pháp phải Tâm ngay, Chân Tâm hồi sinh lực, Tỏ Rõ giải Phước Điền, Hạnh nguyện nguyên tự tín. Bằng chưa an lành trong Tự Tín thì tu sống nơi thế hệ vu vơ mờ sáng, nương theo tạp nhập trở thành Nhập Thuyết. Phật Đạo mới phương tiện là: Nương vào Công Đức Như Lai Thuyết Pháp. Tuy nhiên đang tu nhập nói, chính các hàng tu học phải học lại thời Pháp mình đã nói mà tiến thân, chớ nên lầm cho mình đã từng thuyết pháp, nên chi Tự Tín rất cần Hạnh Nguyện thời Tự Tín kia mới là con đường Tự Tín tu đạt Chánh Tín.
Thiền Sư sửa lại y áo bước đến bát hương, đã đặt trên vách lá, bái ba bái chiêm ngưỡng, xong đâu đấy vẻ mặt trang nghiêm, đầy lòng kính ái. Thiền Sư chắp tay nói Bạch Thế Tôn: Chính con đã đưa tất cả chúng sanh Tri Kiến Giải Thoát. Sự lầm lạc nơi con giờ phút nầy không nói được. Con vướng bệnh mê lầm chính con phải chữa căn bệnh, khi bệnh hết mới đặng giải thoát. Con tu cầu đã từng Thề Nguyện, độ hết chúng sanh mới nhập Niết Bàn, bằng còn mỗi một chúng sanh chưa tận độ, con thề chưa nhập Niết Bàn.
Thế mà, con ngỡ chúng sanh nó buộc con chưa giải thoát. Con phải giằng co với chúng, con tu cầu nơi đúng chân nguyên, con phải lang thang kiếp sống hão huyền, qua từng khúc, từng hồi từng cơn khắc phục. Nó mãi diễn tấm tuồng, con cứ lầm nơi nó với con, cứ như thế mãi cho đến từ hàng ma quái hay loài quỷ quái sinh tâm, nhất nhất tư tưởng lầm, nung cầu giải thoát, lại bồi vào hàng Tiên Thánh siêu thoát độ nhân sinh. Con ngỡ con Bồ Tát thành, ứng thân muôn triệu cách. Hôm nay con quét sạch mới thưa Bạch Đức Thế Tôn.
Thiền Sư đưa đôi mắt thỉnh cầu bửu sám. Khi bấy giờ nương nhờ nơi Bửu Sám Chí Tôn của Thiền Sư ứng hiện chân thành, hòa đồng Tam Thiên Vũ Trụ, liền ánh Thái Dương chợt có vừng mây che bớt ngọn nắng nực hồng, trở thành trời êm gió mát. Nơi lều lá có ánh hiện Huỳnh Quang, có tia vàng hương tỏa, Thiền Sư hiện thân lên tòa thuyết pháp. Bỗng nhiên từ Tây Phương, Đông Phương, Nam Phương cho đến Bắc Phương trong mười phương, từ hàng Trưởng Giả, Tôn Giả, Chư Thiên, Càng Cát Quỷ Vương từ một phương đến mười phương đầy đủ tề tựu, đầy đủ lớp lang trong hàng Bồ Tát không thiếu sót.
Thiền Sư nói: Nầy các Ông, đây các Ông, đến các Ông, hãy nghe Ta dạy, hãy lãnh lời Ta hòa đồng chỉ giáo. Khi bấy giờ hàng hàng lớp lớp ngồi yên. Tiếng Sư Tử Hóng của Thiền Sư phát hiện nói: Ta đã dạy các Ông, từ hàng lớp sơ khởi, cho đến Bậc phát Bồ Đề Tâm,Ta nhắc nhở từng phân, từng hồi để các Ông thọ pháp, các Ông sinh lòng biếng nhát, Ta phải giải nói siêng năng. Các Ông chẳng nói không rằng, dạy nên thuyết pháp, các Ông lý suông khoác lác, buộc phải thụ giới Chân Như, các ông Tâm nhỏ chưa trừ, dạy nương theo Chí nguyện, các ông sanh lòng Tăng Thượng, dạy các ông Ngã giải lìa, ngôn lánh nơi Thọ Giả. Trong khi ấy các hàng Chư Thiên, Chư Tiên chiêm ngưỡng chờ giải đến phần mình, thời bỗng nhiên Thiền sư nhìn nói:
Nầy hàng Chư Thiên, các ông rộng hẹp chưa dung đồng bình đẳng, chỉ vì độc tôn bỉnh trị, do nơi ưa chuộng say đắm chốn uy quyền. Ta phải dạy Sắc Hương chớ vương trong Pháp Giới, buông thả tỏa muôn phương cúng dường Tam Thế chứng. Còn hàng thanh thoát của Chư Tiên, do Căn Tánh hiếu kỳ, do lòng hữu hóa, nên bị sống hóa sanh trưởng thành tài phép chìm đắm diệt sanh.Ta phải dạy tâm hành Kim Cang Đại Trí. Đến hàng Bồ Tát hiện tu đạt phẩm Phổ môn cung kính phẩm cúng dường, rộng đường Bát Nhã vị. Thiền Sư vừa tuyên đọc xong: Tất cả rồng người Tiên Thần Thánh Hóa cùng Bồ Tát trùm khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới tán thán. Chư Phật mười phương chứng minh đương thời Hạ Lai pháp thân thị hiện giảng giải.
Các hàng lớp lớp, tất cả ứng thân thị hiện đứng lên lễ bái, đứng lên thưa gởi, đứng lên tỏ bày. Thiền Sư gật đầu tất cả đều ứng nói:
Kính Thượng Sư, chúng con đều rõ như vậy, biết như thế. Công Đức Thượng Sư Vô Lượng, Công Năng vô biên tận tận khó nghĩ bàn. Chỉ vì lòng chúng con, mỗi hàng mỗi vị đều có sẵn của mỗi nơi, lớp lang đâu cũng vậy, tình tứ mỗi sẵn Tánh ưa thích giành nhau, bởi lòng thương cảm mến Thiền Sư về với phần chúng con, nên chi xãy ra sự việc.
Chúng con giành giựt. Chực sẵn mỗi bên. Chờ lúc hở cơ, mang Thiền Sư về an trú. Chúng con lại mỗi giới, có giới yêu đời, có nơi dõng dạt, có chỗ nói khoác, có chỗ an bang, có từng đoàn phỉnh gạt. Lại thêm nơi thanh thoát lắm cõi hiên ngang, xây dựng giang san lập thành Vua Chúa không ngoài phân bủa, giành cướp Thượng Sư.
Nghe xong Thiền Sư cười xòa hỏi? Tại sao? Tại sao kính thưa Thượng Sư, tại mỗi nơi có sẵn mỗi Chủng Tộc nó như thế. Thiền Sư vỗ tay, tất cả thảy đều vỗ tay xưng tán.
Lạ thay! Trên con đường giải thoát.
Kỷ niệm mùa Kiết Hạ, ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT
Khai Thị năm 1985,
Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi chép lại.
(*) Môi–thuẫn : chữ của chính Đức Ngài.
Ý nghĩa là môi trường mâu thuẫn.