–“PHẬT ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh vũ trụ. BỒ TÁT có quyền chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng.″

12. THIỀN SƯ VỪA TĨNH TỌA XONG...

17 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 11025)
12. THIỀN SƯ VỪA TĨNH TỌA XONG...
Thiền Sư vừa tĩnh tọa xong quang cảnh bên ngoài an nhiên tịch tịnh, hư không vô tận lặng lờ gió mây hòa đồng nơi không khí, pha lẫn vạn chất cây lá rừng reo, trở thành mùi hương vị thuốc trường sanh.

Thiền Sư đưa đôi mắt chung đồng, nở nụ cười thoải mái chào đón Vũ Trụ Tam Thiên, Ngài gật đầu in tuồng vừa giải xong cơn Đại Định Tổng Trì. Thiền Sư khẽ nói: Do Lầm Nên Hữu Hóa. Ta muốn kêu lên lời nhắc nhở với cố tri. Còn nghi phải tu cho sạch sẽ chỗ nghi. Còn chấp hãy bước lần cho sạch chấp. Chớ nên vì chấp mà đứng yên. Chớ vì chỗ nghi mà an trụ, cho đó là rỗng không vô ích. Đến giai đoạn tỏ rõ mới nhìn nhận vạn pháp diễn hóa, vốn thể như nhiên thành thử vạn pháp không sai hai tướng, mà Ta cùng chúng sanh đang lầm bị lạc, gánh chịu hai chữ Tín Mê đang đi theo Hữu Hóa ngộ nhận mới có lý sự trách ẩn dị phân mãi lầm sanh tử.

Bậc Đại Giác Chí Tôn Ngài đã tận tường, cái Mê không Gốc mà trái lại Có Nguồn, vì chúng sanh Hữu Ngã mà gây ra, nên ấn chỉ chúng sanh lìa ngã, nương vô ngã tầm Đại Chơn, nương theo trăm sông, lần về biển cả. Thiền Sư Ngài nói đến đây ra chiều suy ngẫm liền tự thán: Khó khăn thay trên con đường vào Chánh Giác. Ta đã từng trải qua bao nỗi khúc eo vô cùng tận, nay đạt đến Biển Cả khó phân như thế nào cho tất cả đang vật vờ nơi cơn mê chưa Hồi Tỉnh. Sức nơi Ta là sức Đại Dương. Còn công năng chúng sanh khác nào bọt trôi theo cơn sóng gió.

Ngài tự thán xong Thiền Sư đưa Chánh Niệm giao cảm Chư Phật mười phương rung chuyểnTam Thế Chư Phật đồng thọ ký lời huyết tâm Thiền Sư cảm ứng. Đâu đó xong xuôi, Thiền Sư giải nói: Này các Bậc Cố Tri Vĩ Nhân Đại Trí, tu cầu con đường song tu Hiện Giác, những vị này, chưa bao giờ được gặp nay gặp với Ta, bất cứ một nơi nào đáng kể, miễn nhận chân Minh Thuyết thực hành đó chính là cố tri nay gặp gỡ. Bằng gặp gỡ đương thời sống chung một mái, bê trễ ương hèn dù cho đọc tụng chăng vẫn chưa nhìn đặng Ta một ít nào cả. Thật phí thay, thật uổng thay cho một đời chưa gây tạo.

Thiền Sư nói tiếp: Con đường giải thoát phải tận gốc mới thấu nguồn mê. Từ thế gian đến xuất thế gian thảy đều là nguồn giải thoát, miễn nhận chân đặng liền lãnh lấy giải thoát môn. Bằng vu vơ chưa nhận khó vào biển cả của Đại Dương mà giải thoát.

Thế Nào Là Biển Cả Đại Dương Chúng Ta Phải Thâu Nhận Lầm Lẫn?

Từ một khởi sơ khai. Nhiếp thâu hoàn tất chẳng thiếu sót mảy may tận giác. Sự nhiếp thâu này lìa ngã cùng ngã sở chớ nặng nhẹ Thánh Phàm chớ vội vàng chấp nhận.

Thiền Sư khải niệm xong, Ngài hớp một hơi trà lúc bấy giờ Ngài hướng dẫn. Nầy các ông, các bậc cố tri nay Ta kể các vị cùng Ta hãy nhìn nơi Hư Không Vô Tận. Nhìn đến Sơn Hà Sông Núi đang chung sống cùng Ta. Bản thân Ta tìm phương giác ngộ. Tự tánh nơi Ta hóa giải chấp mê, diệt trừ bản ngã trên lý sự tu hành Ta cùng các ông dẫm nát, nó mãi kéo dài, có từng vạn triệu kiếp người, kiếp thiên tiên hay thọ sanh vào nơi các loài cầm thú, thăng trầm làm quỷ làm ma không dứt. Do đó nên chi mới có. Phật Thánh thường còn. Chúng sanh thường diễn, đến bao giờ chấm dứt giữa Phật với chúng sanh, tìm ngộ bị mê ở nơi mê thấy ngộ.

Lạ thay! Đứng Thánh tự tăng, ở vào phàm sa đọa. Khó khăn thay, tu tịnh vướng động tâm. Sửa sai lầm, sanh chứng tật.

Lạ lùng, khó khăn thay, lầm sai nên hữu hóa. Thân Tâm động vọng lệch sơn hà. Ngày nay Ta đã rõ làm thế nào phân tánh, vạch hướng cho tất cả bị lầm sai? Thiền Sư suy ngẫm đến đây Ngài nói:

Sơn Hà Đại Địa quả đất cỏ cây toàn diện như nhiên diễn hóa, sự diễn hóa này thuộc về Thể Tánh như nhiên tự hóa, do đó hòa hợp với tất cả chúng sanh Tứ Loài không sai chạy. Nó chẳng khác nào: Con trăng tròn chiếu sáng. Trăm kẻ nghìn người ai cũng công nhận con trăng gần mình hơn ai cả.

Khi vui nhìn cảnh cũng vui,
L
úc buồn cám cảnh sụt sùi tái tê.

Có người tự hỏi? Do Ta hay do Cảnh? Lắm bậc đã từng hiểu do tại nơi Ta. Nhưng chính Ta chẳng biết làm thế nào cho hơn cảnh tình ấy. Bậc khéo lượng, bậc này sẵn có đầy đủ trí thức cùng kiến thức, gọi là Tâm Đạo biết thương mình và thương mọi người, không lạm dụng không lừa dối mọi người hay áp dụng tình sanh cảnh, có thể nói đứng vào hàng quân tử.

Thiền Sư còn nhớ, có một độ xa xăm Ngài trực nghĩ. Ta phải thâu nhận lầm lẫn chính mình mà đào sâu vạn pháp. Ta phải tận khắp chu du cốt tận thấu duyên căn lầm mê cùng giác ngộ. Khi lầm sanh nơi Vũ Trụ với con người tỏ rõ con người cùng Vũ Trụ mới là giải thoát môn. Bằng tận thấu duyên căn Đại Ngộ nên chi Ngài nói:

Quả Đất hình thành nó vẫn từ mỗi một điểm nhỏ kết nạp hóa ra đầy đủ không thiếu sót mới thành hình quả đất. Bậc mê lầm phải tường tận duyên căn chung khắp khi mới sơ khai, đến giai đoạn kết nạp, lúc đã kết nạp đầy đủ tiềm năng, đầy đủ chất phẩm và trọng lượng, trái đất kia liền như nhiên hợp hóa sanh ra núi sông, cây cảnh. Diện núi sông biện minh ra địa giới địa hạt củng cố từng nơi, do tâm thức con người nơi thấp chỗ cao, tầm sâu hay nông cạn, từ nhỏ đến lớn như nhiên diễn hóa, có đầy đủ ý nhị khó giải hết nơi tập này trên văn tự trừ ra bậc có đầu óc rộng rãi cân đối mới tạm hiểu lời Ta nói mà thôi.

Khi bấy giờ. Thời quá khứ không thể nói thời ấy trải hằng bao nhiêu thế kỷ. Đức A Đề Phật là Vị Phật đầu tiên ra đời, cùng với quả đất hình thành tất cả cây cỏ núi sông, tứ loài sanh trưởng đầy đủ không thiếu sót. Thời bấy giờ, con người chỉ biết thân mạng mình giống con người, ngoài ra chưa hề có kỳ vọng chi cả. A Đề Phật ở tại khu rừng, Ngài kiểm chứng cây cỏ núi sông Sơn Hà Đại Địa mà Giác Ngộ.

Ngài nói: Tuyệt tác thay, thiên nhiên sơn hà cây cỏ trời mây với Ta là Một, hợp hóa đồng thanh tương ứng hiện giác. Thế mà con người ngỡ con người với sơn hà cây cỏ núi sông là Hai, thật sai lầm vô hạn.

Đức A Đề lúc bấy giờ Ngài sẵn có thể tánh đồng đẳng với Sơn Hà Vũ Trụ, nên chi thường nhập Chánh Định kiểm chứng bao quảng cùng khắp, Ngài nói: Mắt nhìn thấy Hư Không ta đặt thân mình vào tận Hư Không, Ta không còn thấy Hư Không mà tận thấu Hư Không là Giác Tướng. Ta ra vào vạn pháp Ta không nhiễm trước Ta chưa thấy vạn pháp diễn hóa ra sao, mà Ta thấy vạn pháp như nhiên diễn hóa, đó là Ta chứng thị như nhiên Thể Tánh vạn pháp.

Vạn pháp nó rất gần Ta, mà nó thật rất xa ta có hàng vạn triệu bá thiên dặm khi ta chưa nhận chân nó, lúc ta đang còn vướng vấp đảo điên do lầm nên hữu hóa, chỗ hữu hóa này có thể nói là Bị Hóa che mờ Thể Tánh Như Nhiên nên chi trực giác hơn Bị Giác là như thế.

Đối với Đức Bổn Sư Ngài biệt tài siêu đẳng chưa có vị Phật nào trải khắp chu du, kinh điển diễn đặng như thế. Tất cả những vị nào, từ đời nầy đến đời sau nương theo kinh pháp Ngài đặng giác ngộ, bằng hình thức không y kinh mà chẳng ly kinh thảy đều tu đạt Chứng Thị.

Thiền Sư vừa giải đến đây. Ngài đứng lên đi qua đi lại bảy lần tri ân Bổn Sư Chí Tôn Vô Thượng Ngài nói: Giờ đây con mới thấu. Không Sai. Không Đúng. Đều Đúng Mười Phương. Tận Tận Tường Tường chẳng vương, không vấp.

Hay thay, vi diệu thay. Con đường Bồ Tát Hạnh Nguyện, cao qúy thay Đại Nguyện phát tâm rộng rãi cao đẹp tận độ chúng sanh giai thành Phật Đạo mà Đức Chí Tôn ban bố Chư Bồ Tát phụng hành phải trải qua nhiều trở lực mới tận thấu Chân Như. Có đi vào cơn mê thực tiễn mới thâm nhập cái mê mà Giác Ngộ, có kiểm chứng thực hành mới nhận chân được do lầm vương nơi hữu hóa. Bằng dùng Sắc tự quán kiểm chứng hay thinh hương vị thứ kiểm chứng thảy đều sai biệt với Chánh Giác. Nếu đứng trước khuôn mẫu của mỗi một con người có Tướng Tốt, hoặc giả tướng xấu chưa hẳn đã tốt hay xấu. Hãy nhìn tinh hoa vận chuyển có thủ hay có xả. Bằng thủ nhiều liền dục Sắc, dục Thinh danh giả, dục Hương khoe tài, khoe đức, dục Vị ưa củng cố vị thứ thảy đều là con người giả danh nơi danh giả mà thủ.

Bằng xả nhiều là kẻ trôi sông tiêu cực mang lấy hư vô chẳng làm chi hữu ích, hai hạng con người nầy chưa hề hay biết sử dụng. Họ thảy đều quan niệm Thân Tâm lìa ngã cùng Ngã Sở, mà trái lại Thủ vẫn Ngã, Xả đều là Ngã. Chẳng khác nào Cấu chưa đặng mà Tịnh vẫn không xong.

Thiền Sư trầm ngâm in tuồng kiểm chứng, không khác mấy vị Đại Lương y, xem xét mạch lạc đặt viên thuốc cứu chữa bệnh mê lầm, làm cho con bệnh nhận chân may ra thấu nhận. Ngài nói những vị tốt nhất là Bậc Thủ để kiểm tra, Xả liền tha thứ, Thủ đặng sáng soi, Xả đặng trơn liền, nơi tinh hoa vận chuyển của những vị này đã từng thực hiện, từ thâm tâm cho đến ngoại giới liền lạc trơn tru nên chi hay nói: Ta Tha Thứ, Lỗi Lầm Cho Tất Cả. Ta Không Bao Giờ Lầm Lỗi. Bằng Ta chưa tha thứ Lỗi Lầm, Ta phải gánh chịu Lỗi Lầm.

Làm như thế, tu như vậy mới nhận thấu nơi Chúng Sanh Tánh bị lầm nên vạn pháp Hữu Hóa. Càng hữu hóa bao nhiêu lại càng sanh diệt bấy nhiêu. Bậc càng Hữu Hóa càng đi nơi sanh diệt của hữu hóa mà thân tâm sáng soi nhịp nhàng của hữu hóa vận chuyển tỏ ngộ, vận chuyển lưu hành nơi thể tánh nó, những bậc này đối với con đường Chánh Giác rất gần. Vì sao? Vì nương mãi hữu hóa tận thấu hữu hóa liền sở đắc Niết Bàn Không Hữu chẳng Vô mà Chánh Giác.

Thiền Sư Ngài nở một nụ cười. Ngài nhìn mặt đất trơn liền đã từng nuôi dưỡng trăm nghìn cây lá. Ngài nói: Lời Ta nói không bao giờ họ tin nơi Ta Chánh Giác. Tâm Ta trơn liền, ai đã hiểu đặng Lòng Ta. Ta thường nói: Ta Không bao giờ tiếc thân mạng thì tài sản vật dụng Ta nào có sá chi. Thân mạng Ta, Tài sản vật dụng Ta bảo toàn, chính ra Ta bảo toàn Quả Vị, Không dư thiếu trơn liền, thì vận chuyển lưu hành nào kém khuyết, toàn Thiện toàn Chốn Viên Dung chung khắp. Đây lời Ta nói tất cả những Vị như Ta thảy đều như thế cả.

Thiền Sư vừa nói đến đây. Ngài có vẻ mặt đăm chiêu, đương chiều suy nghĩ thầm nói: Nếu Ta nói tất cả con người đang lầm nên bị hữu hóa. Khi đảm phá hoặc hóa giải cho con người, thì gốc của con người toàn diện đang theo hữu hóa làm như thế nào tận gốc hữu hóa. Khi bấy giờ mới tận đặng nơi chốn thực tiễn thường còn biết sống và lẽ sống an nhiên không còn đúng sai hai chữ chạy vòng thay Chu Kỳ trái đất. Chính nó là một con đường thẳng. Không nhiễm hữu hóa, sáng soi tất cả sự việc lý trí của hữu hóa mà đạt thành căn bản chân lý thực tiễn. Tài liệu này không ngoài tài liệu Tam Tạng Kinh Điển mà Đức Bổn Sư đã từng hướng dẫn, nay được gọi là lời vàng Bảo Pháp cho con người và thế giới đang chiêm ngưỡng nghiên cứu chưa tận thấu tu đạt. Vạn Pháp Như Nhiên. Chúng Sanh hữu hóa lầm lạc, hai thái cực này nó mãi diễn. Chư Phật cùng Chư Bồ Tát đã dày công hóa độ. Khi chỉ thẳng chúng sanh tánh lãnh hội vòng quanh, lúc diễn giải Vòng Quanh lại có Bậc Trực Ngộ, cho nên lý sự mê ngộ nó chẳng có chừng nói nơi Văn Tự, điểm chính nơi nó chỉ có Công Năng đầy đủ Không Kém sót là hơn tất cả.

Thiền Sư nghĩ về Thiền Tôn. Ngài nói: Thiền về một Môn. Chân lý thực tiễn, chung gồm Hiển Giáo và Mật Tôn phát sanh Trí Tuệ, trí tuệ này có chỗ học mới biết, hay những điều chưa học như nhiên Năng Khiếu đặng biết. Những bậc Tu Thiền sai lệch chưa có Trí Tuệ, chưa hẳn đã là Bậc nhập lưu tu Thiền. Nói đến Chứng tri mà tu đạt tận cùng của Thiền Trí khó giải nơi văn tự. Vì sao? Vì Môn Thiền là một môn hỗ trợ công năng Đức Tánh nên chi Tâm truyền Tâm Liễu Ngộ Thiền Sư. Từ nơi nhìn nhận của Hiển Giáo và nhà Thiền Tông Không Khác mà thật khác thành thử Môn Thiền là môn chứng Đạo.

ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT
Khai Thị năm 1986,
Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi chép lại.