–“PHẬT ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh vũ trụ. BỒ TÁT có quyền chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng.″

14. BỒ TÁT GIẢI NÓI XONG ÊM LẶNG

17 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 12168)
14. BỒ TÁT GIẢI NÓI XONG ÊM LẶNG
Bồ Tát giải nói xong êm lặng, sau Ngài tiếp: Nhẫn Nhục, Trí Tuệ Thiền Định. –Trí Tuệ Nhẫn Nhục Thiền Định nầy khai hoang Trí Tuệ phát triển. Nhẫn nhục có hai lối: Lối thứ nhất Bị Nhẫn Nhục. Lối Thứ Hai: Bậc có Bản Năng Điều Ngự Bản Thức, dụng nhẫn nhục kiềm chế Tâm Thức khỏi dục vọng, tranh giành hơn thua mà nhẫn nhục vì nhẫn nhục lìa ngã, ngã sở, đúng với tinh thần Trí Tuệ Thiền Định, vì sao? –Vì Tâm Thức động vọng, Thiền định là Tịnh Tâm, đã Tịnh Tâm Trí Tuệ. Trí tuệ lìa tất cả nhận thấu tất cả, Trí Tuệ không mắc miếu nơi đâu, thì đâu đâu thảy đều tận thấu. Còn phần tâm thức động vọng từng hồi, hồi nào cũng phải lần quấy tùy chúng sanh phải quấy, nào do nơi tâm, tuy nói tâm đặng mà không đặng mảy may nào cả, chỉ cuồng quay Tâm Thức mà thôi.

Tịnh Tâm Thiền Định vốn chung Trí Tuệ. Không Tịnh Tâm Trí Tuệ vẫn không. Không Thiền Định nào phát huy Trí Tuệ? Bậc tu phải có Bản Thức kiềm chế Tâm Thức. Bản Thức phải có yếu tố năng lực kiên trì Chí Dũng thù thắng Tinh Tấn Bất Thối Tâm, Nhẫn Nại Bất Chuyển Bồ Đề, đánh đổi qua từng giai đoạn tu chứng, từ Phàm Phu trưởng thành Thánh Ý, Tri Kiến Giải Thoát.

Lời vàng hướng dẫn chỉ dạy. Nghe đặng là khó, nghe đặng thực hiện chưa đặng phải Kiên Trì Thực Hiện đặng càng khó hơn, vì sao? Vì nghe đặng, nhờ dẹp điên đảo loạn tưởng nơi Tâm Thức mà nghe đặng, còn thực hiện chưa đặng vì yếu kém thực lực công năng, nên chưa thực hiện đặng. Bậc tu phải cần tu hơn thế nữa mới thực hiện đặng.

Đương thời cuối thế kỷ hai mươi, cận kề hai mươi mốt đa số tu tự tánh tỏ tánh nghiên cứu nhà Phật cũng khá nhiều. Phái Thiền Tôn ưa chuộng không ít, có nhiều nước thành lập cơ sở khang trang, nhiều nơi Tu Thiền cần trí tuệ, vừa nghiên cứu vừa Tu Thiền hoặc Tu Thiền Dưỡng Sinh, Tọa Thiền Võ Đạo Thần Giao Cách Cảm. Những chỉ tiêu Tu Thiền trên thảy đều trực thuộc về Nhân Thiền hay Nhân Thiên Thiền là tốc độ cao nhất. Vì sao? Vì Thiền Dụng Tâm Thức mà Tu Thiền chưa Trí Tuệ Cứu Cánh Thiền. Trí Tuệ Cứu Cánh mới là Như Lai Thiền Tri Kiến Giải Thoát.

Phật Đạo mục đích đưa Tín Chúng giải thoát. Phật đã từng nói: Tướng giải thoát từ lâu, Tâm chúng sanh mắc miếu chưa giải thoát. Nên chi Tu Thiền đặc điểm về Tâm truyền Tâm Liễu Ngộ. Khi đang Tu tập Thiền Tọa chớ nên chấp trụ trụ chấp, lâm vào Tâm Thức đảo điên cuồng vọng. Hành giả có đầy hiểu biết năng khiếu, kiên trì Chí Dũng lập trường mới tu Thiền đặng.Vì sao? Vì dụng Bản Thức cai quản Tâm Thức, lìa Thức hồi Tâm, có nghĩa lìa vọng về Chân sở đắc Trí Tuệ Tâm. Tại sao Trí Tuệ Tâm? Vì Tâm độc lập trơn liền, chen lẫn Thức trở thành Tâm Thức, Thức thời động vọng trở thành Pháp, Hành Giả Tọa Thiền tỏ Pháp, Thức không còn, Tâm về với Tâm nên gọi Trí Tuệ Tâm. Tu Thiền chủ yếu phát Trí Tuệ Cứu Cánh, ấn quyết tâm, tuệ phát trực nhập đắc tâm, trực ngộ Chân Giác, lìa Chân Chánh Giác, tu như thế Như Lai Thiền.

Tôn Phái Thiền. Tùy theo Tâm Thức của mỗi hành giả mà hướng giáo, không tùy thuộc học hỏi Văn Tự Tu Thiền, vì Thiền Môn không tự. Bậc Thiền sư thấu đạt Tâm Thức lưu động phiên diễn tất cả, nên tùy nơi mỗi hành giả lập Tông Ấn giáo Tu Thiền. Các hành giả bổn phận Tín Hạnh Nguyện bất thối tự lập phát huy Thiền Tông. Tu Thiền không có cấp bậc nào mà có cấp đẳng Thiền. Phái Thiền có Chủ Thể. Chủ tánh Thiền Tôn đi sâu Bản Năng tìm lực chủ trì phổ chiếu làm con đường Giác Ngộ, bản năng tự lập duy nhất. Có ý nghĩa vạn Pháp duy tâm. Vũ Trụ bản thể thân tâm duy nhất không hai. Dưới mắt Thiền Sư, thấu đạt tất cả, tất cả đều Thiền Sư, ngoài không có Từ Ngữ nào giải đặng.

Thiền Tôn một Giáo Môn cực điểm đánh đổi mê lầm về với Giác Ngộ Tận Giác. Khi hành giả nhập Môn Tu Thiền Vị Thiền Sư chứng minh nhập môn. Lễ nhập môn xong, hành giả tu tập Thiền Tọa, tối đa hai thời Thiền Tọa, ngoài ra vị Thiền Sư giáo huấn từng vị hành giả riêng còn nghi luật thời Tâm Khẩu Ý, kiểm soát Thân Khẩu Ý kín nhiệm, mỗi tháng hai lần phát hiện Tâm Thức, mãi mãi từ ba năm đến bảy năm lúc nào tỏ ngộ nguồn mê nơi Tâm Thức, thường chấp, thường trụ hoặc hay trụ chấp thiệt hại như thế nào, đâu đó sạch sẽ, lúc bấy giờ mới làm Đại Lễ Nhập Lưu. Nhập lưu mỗi một hành giả, biệt lập ở riêng mỗi vị một cái Cốc, công phu Thiền Tọa. Tứ Thời Công Phu. Trước khi vào lưu cốc, các vị thảy đều Thề Nguyện. Có vị thề: Tu chưa Đắc Đạo, thề chưa rời khỏi cốc.

Tinh thần Tín Hạnh Nguyện tọa thiền. Tôn Phái tu thiền cực điểm. Khi đã hiểu sâu lý sự lầm mê do nơi Tâm Thức, dùng Bản Thức cực điểm lời nguyện tinh thần bất khuất giải trừ Thần Thức Viễn Vong trở về với Nhất Tâm giải thoát. Thiền Tôn tận dụng Hiển Giáo Mật Tôn gọi là Viên Giáo, Tiệm Giáo, Đốn Giáo là bước tu toàn diện, đầy đủ viên dung Tri Kiến Giải Thoát. Đa phần thời Hạ Lai nầy nhiều bậc chưa thấu đáo. Tu Hiển Giáo chuyên ròng Hiển Giáo. Tu Thiền quan trọng Mật Tôn Siêu Hình Vạn Tượng, Tu ròng Thiền Học Đốn Học, Tu Tiệm gìn giữ Tiệm, nếu không chung kết, tổng hợp làm thế nào Liễu Đạt Chánh Giác.

Đặc Điểm Thiền Tôn, Bậc kém Tọa Thiền, đảo điên động vọng, nơi động vọng đảo điên trực thuộc Tâm Thức, dụng Bản Thức ngự chế động vọng đảo điên. Khi hành giả tọa thiền khá đặng Tịnh Tâm, nhờ Tâm Tịnh thời Tâm Thức cải hóa, trở thành Thần Thức, Thần Thức Tâm Thức thảy đều trong vòng mê loạn tham muốn. Một bên Tâm Thức do Thân Tâm, còn một bên Thần Thức, Tâm Hóa tinh thần lung lạc nên gọi là Thần Thức lưu hành qua từng vọng tưởng. Thiền Tọa phải kiên trì không trụ xứ Thần Thức, Bản Thức vẫn ngự chế không trụ xứ Thần Thức, Thiền Tọa di chuyển chung khắp, các cảnh giới các cõi, Thiên Biến Vạn Hóa làm cho hành giả ưa chuộng mà trụ xứ, hành giả có trí tuệ Huệ Nhãn tránh khỏi lầm lạc. Bằng chưa tu đạt đến, không nên tu, không nên chấp trụ một pháp nào, vui mừng Tự Ngã một Cõi nào, bằng chấp trụ đều mù quáng. Miễn ngự trên Thần Thức di chuyển khắp khắp Tam Thiên, Đại Thiên Thế Giới, bất luận cao thấp cảnh giới thảy đều nương nơi Thần Thức tỏ ngộ Thần Thức Thiền Tánh.

Nơi Nghe Thấy Biết Bình Đẳng, nhưng Bất Bình Đẳng, giai cấp trình độ. Có tu, chưa tu, có chứng, chưa chứng, kể ra không hết đặng. Khi nghe, lúc thấy, được biết cùng chưa đặng biết sai biệt nhau. Tận Giác Chánh Giác Đồng Đẳng nhau. Tu Phật Đạo Phật rất Bình Đẳng vì lầm mê Giác Ngộ xa cách nhau khó diễn giải, khó nhận lãnh, được gọi là Bất Khả Tư Nghì, khó nghĩ bàn.

Bậc Thiền Sư: Dưới sự nhận định, xa cách hẳn Bậc Hành Giả đang tu Thiền Tọa. Vì sao? Vì Bậc Thiền Sư nhìn nhận Tổng Quát, do đó Thiền Sư nói: Một nơi phải, hoặc cái phải của một chúng sanh cho là phải, trong giờ phút đó Vũ Trụ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới có hàng Bá Thiên vạn triệu chúng sanh đồng cho phải, gọi là Thế Giới Hải Phải. Mỗi một chúng sanh cho là Quấy, thì liền có Bá Thiên vạn triệu chúng sanh cho là Quấy, gọi là Thế Giới Hải Quấy. Khi Đức Phật thọ ký Bá Thiên vạn Phật đồng thọ ký. Mỗi một vị đắc chân lý liền có Bá Thiên vạn triệu đồng đắc chân lý, gọi là chân lý Hải. Một Bậc Đạt Vô Thượng Đẳng, liền có Bá Thiên Vạn Triệu Bậc Tu Đạt Vô Thượng Đẳng, gọi là Thượng Đẳng Thế Giới Hải.

Từ chốn Tâm Thức lầm mê, có Bá Thiên Vạn Triệu lầm mê nơi Tâm Thức, vô lượng vô biên đại mê, cuồng mê, vọng mê Tâm Thức Hải. Bản Năng phải ngự chế xem xét lỗi lầm, qua từng cái Mê sạch sẽ hết thức giải mê Giác Ngộ. Từ nơi, Tâm Thức Hành Giả Tọa Thiền trở thành Thần Thức, Thần Thức rộng rãi bao la, thanh thoát cực điểm, Đại Lung, Đại Lạc, Đại Cường, Đại Vĩ, lên xuống cuồng quanh, Thiên biến vạn hóa theo Chơn Thể Pháp Tánh. Hành giả lầm nhận vui mừng an trụ hoặc giả ưa chuộng thích thú cho đó cực điểm không ai bằng, liền thọ chủng Thần Thức lâm vào Ngoại Giáo.

Bằng bậc kiên trì tận thấu Tâm Thức liệt hạ tranh giành, Thần Thức tham lam Đại Vọng, không Nhiễm chẳng Lìa, Tròn Giác. Ví như bậc đã tự mình phát hình nhìn xem vũ trụ thuyên diễn, một tấm tuồng mê ngộ, Chánh Giác.

ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT,
Kỷ Niệm Trung Thu năm Bính Dần 1986.

Thiền Sư Bồ Tát Di Như ghi chép lại.