–“PHẬT ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh vũ trụ. BỒ TÁT có quyền chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng.″

5. DƯỚI MẮT THIỀN SƯ ĐỐI VỚI VŨ TRỤ

16 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 10601)
5. DƯỚI MẮT THIỀN SƯ ĐỐI VỚI VŨ TRỤ
Khi Thái Tử Tất Đạt Đa, Ngài đứng ngoài tất cả các Tôn Giáo, Triều Đại và con người, Ngài nhìn tất cả quán sát quân minh trực giác Vũ Trụ với con người Sở Đắc THIỀN TRÍ. Ngài mới nói: Lạ thật! Lạ thật! Chưa phải ta vứt bỏ vật chất nhịn đói tạo lấy tinh thần mà đặng. Cũng chẳng phải xa lìa tinh thần sung mãn vật chất mà đủ. Vật Chất với Tinh Thần phải quân minh, nơi nhìn không nặng nhẹ thời chốn thấy mới Lai Hoàn. Cái nhìn nó như vậy, cái thấy thực thể hoàn lai. Chính đó là: NHƯ LAI NHÃN TẠNG. Ngài đoạt đặng Vô Thượng Đẳng Chánh Giác, Ngài rời cây Bồ Đề, thành lập pháp môn NHƯ LAI NHÃN TẠNG, gọi là Như Lai Thiền trong Đạo Tràng Phật Đạo.

Môn Thiền là một môn Đạo Phật dùng để hóa giải tư tưởng, hóa giải ý thức hệ đến Tạng Thức làm cho con người đặng hiểu biết nhìn nhận Vũ Trụ với con người rất tương quan vô kể, nhìn đặng tất cả những gì vũ trụ linh động di chuyển con người là dụng cụ, là bộ máy cho vũ trụ điều khiển.

Lấy chứng từ nào để hiểu biết đặng sự hóa giải tư tưởng, hóa giải Ý Thức đến Tạng Thức.

Khi con người biết đặng chữ A, chữ A đứng yên nó là chữ A. Nếu biết chữ B, nó đứng yên vẫn chữ B. Bằng lìa đứng yên nơi nó, đem chữ A ráp cùng chữ B liền hóa thể thành chữ BA, tư tưởng cùng ý thức đứng yên không tiến bộ lại làm cho con người sống theo ý thức tư tưởng cố định quan niệm nơi mình, nên chi THIỀN MÔN Đạo Phật là dụng cụ phương pháp hóa giải ý thức, hóa giải tư tưởng nếu con người biết nhận định rộng rãi, có kiến thức nghiên cứu liền dùng môn Thiền để từ nơi tư tưởng ý thức đến TẠNG THỨC tỏ rõ VŨ TRỤ QUAN, được gọi là Như Lai Tạng cũng thế.

Do nơi quan niệm khắc biệt của con người, bởi con người sống trong ý thức hệ mà phân chia ra từng danh từ theo danh từ quan điểm nên chướng đối với nhau từ vật chất đến tinh thần bàn cãi trở thành Duy Vật và Duy Tâm, từ khối ĐÔNG PHƯƠNG, TÂY PHƯƠNG có hai đích sưu tầm khác biệt, nhà Triết Học Tây Phương với Triết Học Đông Phương chưa đặng thấu nhau giao cảm nhau, vì sao? Vì Đông Phương tự sưu tầm riêng mỗi vị đoạt đến ẤN CHỨNG SỞ ĐẮC tuyên bố truyền trao, nên phải dụng nơi Tin về tinh thần tu chứng. Còn Tây Phương lấy chứng từ thực nghiệm chung nhau một khối, lớp nầy sưu tầm thực nghiệm đặng, nếu chưa hoàn tất thời lớp sau tiếp tục thực nghiệm, nên Tây Phương nhìn có sự kết quả con người nhìn thấy, nhưng về sau thường bị hủy diệt. Còn Đông Phương thời tồn tại nhưng khó phát sanh, vì sao? Vì con người rất hiếm bậc sống động hướng thượng để thi hành, trong đời chẳng biết bao nhiêu tài liệu ghi chép hữu ích cho con người, chẳng biết bao nhiêu sự bày tỏ chỉ dạy cho con người vào hàng Siêu Nhân, Thánh Triết. Nhưng con người nào có nghe, họ chỉ nghe những lời không hữu ích, họ tôn thờ những cái vu vơ, những điều vô căn cứ, họ xem những lối ấy là bảo vật, vì vậy nên chi bậc Thánh nói cho con người nghe được thật là công năng quá kể.

Đạo Phật đứng trong Hoàn Cầu con người đa số đã biết, nhưng rất hiếm bậc biết đặng Đạo Phật đứng ra ngoài tất cả để kết quả tất cả, Đạo Phật đã từng thực hành trước mọi hoàn cảnh của con người, mức sống bằng tư tưởng tinh thần hay lao động tận lực vật chất lối sống khắc khe làm nên sự nghiệp hay lối sống giúp mọi người mà giàu có. Đạo Phật hướng dẫn cho con người vào từng lớp để tỏ biết gọi là HÀNH THÂM PHÁP GIỚI. Lời nói trên duy chỉ có: Dưới mắt Thiền Sư mới nhận định đồng thời nhìn thấy đặng chân thật mà thôi ngoài ra còn Cá Tánh khó mà thấy đặng.

Đạo Phật thật biết rõ, con người nơi bản thân mình như: CHÍNH MÌNH TIN ĐẶNG MÌNH THẬT KHÓ, nên đạo Phật dạy con người có một chữ TIN. Còn tất cả bắt buộc con người phải Tin hoặc ảo thuật cho con người Tin đó là những điểm dưới mắt Thiền Sư biết.

Theo câu nói trên: Chính mình tin đặng mình thật khó, vì sao? Vì con người phát sinh cuồng tưởng đảo điên, cuồng tưởng nơi con người ai ai cũng đều có, từ người nầy phát sinh đến kẻ kia phát sinh, do đó mà đứng trên hoàn cầu xã hội con người đối với con người, sự xáo động nhiều hơn yên tỉnh, cuộc loạn lạc nhiều hơn thanh bình. Nếu dùng Thần Thánh Hóa, thì con người nó sợ hơn là nó thi hành đến đích. Thần Thánh Hóa đối với đạo Phật chưa phải là mục đích của đạo Phật đích nơi đạo Phật hóa giải mê tín đem con người đến chánh tín. Nên chi Đạo Phật dạy con người có một chữ TIN liền đến đích thành Phật.

Tất cả con người thời nầy gọi là MẠT PHÁP, nhưng đối với đạo Phật khai sáng tự bản thân con người mà ra, khai sáng từ nơi lầm lẫn đến chỗ tỏ giác thì làm gì có câu chuyện Mạt Pháp. Duy chỉ con người đứng theo tư tưởng quan niệm mình để thực hành đường lối đạo Phật bị sai lạc nên mới có tình trạng ngày nay lạc hướng tu sai, tu theo quan niệm mình, lấy lý trí nơi mình định đạt chiều hướng đạo Phật, cho đạo Phật là DUY TÂM, nếu đạo Phật là duy tâm sao Phật bảo lìa tâm mới giác, bằng đạo Phật đảm phá duy vật tại sao đạo Phật không cho Tín Chúng ngồi yên, bảo tín chúng nên thi hành HẠNH NGUYỆN, Phật nói: “LÝ SỰ TƯƠNG SONG, CHÂN NGUYÊN TRỰC GIÁC” như thế có phải đạo Phật chung gồm tất cả cốt tận giác tất cả chăng?

Nói đến tư tưởng quan niệm sai của con người đối với đạo Phật thì vô kể, nói đến bản năng ưa chuộng ngồi yên của con người thì đa số, có như thế nên mới có những bậc tự cải tạo mình, tự nung đúc bản năng khả năng nơi mình trở thành Công Năng vượt qua tất cả mọi trở lực trên hết con người mà trưởng thành SIÊU NHÂN, có bậc vượt trên hết con người giúp đỡ cho con người mới đặng THÁNH HIỀN, nếu con người ai ai cũng đều biết giá trị nơi vươn mình vượt lên tất cả trở thành cao quí giá trị Thánh Nhân thì tất cả đều thành Thánh còn đâu con người để mà nói.

Dưới mắt Thiền Sư đã thật Thấy Biết đối với con người thảy đều không Chủ Định, nếu bậc đã có chủ định thời bậc nầy đã có nhã ý quán sát Vũ Trụ với con người. Dưới mắt Thiền Sư đã thấy biết, nếu kẻ hay bảo thủ bản thân, bảo thủ phe phái không làm ích lợi cho con người thì con người kia tự mình hủy diệt lấy nó, còn bị Vũ Trụ sai khiến lắm điều mà ngỡ mình làm chủ.

Dưới mắt Thiền Sư đã thấy THÂN CON NGƯỜI là một BỘ MÁY RỖNG không, chỉ có nhìn trên ngó dưới NGHE THẤY BIẾT tiếp nhận mà phát thanh ra để mọi người nghe, ngỡ là của mình. Nên Thiền Sư nói:

“Nó VÔ NGÃ nó nào nó chịu nó Vô Ngã (không Ta) vì nếu nó vô ngã thì lấy đâu nó sống? Nó có ngờ đâu nó là dụng cụ của Vũ Trụ, nó tin lời nói của Thiền Sư, nó gạt lối bảo thủ, lối hiểu biết riêng nơi nó từ bấy lâu nay, đặng lần tiến thâu nhận những gì nó chưa biết đặng biết, những gì khó nghe nó cố gắng nghe, để sự hiểu biết ấy thông đạt, nó liền đoạt đến Vũ Trụ làm cái biết nơi nó. Chừng đó nó mới nhận định được cái hiểu biết kia chính là hiểu biết vũ trụ lần đưa đến con người hiểu biết chớ không phải hiểu biết nơi con người hiểu biết. Nếu con người tự xưng chính mình hiểu biết thời chưa biết chi cả.

Dưới mắt Thiền Sư đã biết đặng, cái TA chính nó chung cùng trùm khắp Vũ Trụ. Thân con người bị giả hợp tạo thành, làm nên Ứng Thân cho Vũ Trụ. Con người lầm ngỡ thân con người là cái ta chính gốc, nên mới có giữa đôi bên chẳng hòa hợp mức sống Diệt Sanh. Thiền Sư biết như thế khó chỉ thẳng cho con người nên nói: NẾU TA CHO VŨ TRỤ LÀ KHÁCH QUAN, THÌ VŨ TRỤ CHO TA LÀ QUAN KHÁCH. Bằng Ta biết Vũ Trụ, Vũ Trụ đồng cái biết với Ta. Đạo Phật nói: TÂM PHÁP BẤT NHỊ, gọi là cái biết nơi ta, trong ngoài đồng nhất, con người giao cảm với thiên nhiên vũ trụ thông thường tại con người chưa biết. Khi có bậc chỉ hiểu biết nơi tư tưởng ưa thích thoát sanh khỏi trái đất, đặng lên Cảnh Giới Tiên Thần hay Cõi Trời. Sau có sự kết quả theo chí nguyện, mới để tài liệu các Tôn Giáo, Đạo Giáo đã nói trên đó chính sự thật hiển nhiên chớ chẳng phải thần thoại chi cả vì đối với Đông Phương sự Tu Chứng riêng nơi mỗi vị, làm kết quả tùy công năng mỗi người thành thử có những điều con người khó tìm thấy đặng.

Cái THẤY BIẾT, dưới mắt Thiền Sư không khác nào con người đang mang kính Hiển Vi, thấy những loài sâu bọ nhỏ nhất, thân thể sâu bọ ghê tởm nhất mà con người không thể nào nhìn thấy đặng, Cái Thấy nơi Thiền Sư nó rất tế nhị mà sát thật, thấy trong không khí có thực chất Đất, Nước, Lửa, đồng thời có đủ Phẩm Chất các màu sắc như: Xanh, Đỏ, Tím, Vàng cùng hàng ngàn màu sắc thực chất, phẩm chất đang quay cuồng với nhau, kết nạp lẫn nhau tùy nơi đồng hợp của nó, liền đồng hóa đủ với các loài cây cỏ, hoa trái chúng liền đến kết nạp chung với cây trái, hoa lá mà trở thành màu sắc con người đã nhìn thấy trong cảnh vật này vậy. Khi con người muốn lấy các màu sắc ấy không lấy đâu mà có chỉ lấy lại trong cây mà ra, đến nay khoa học đã thực hiện đặng.

Nơi THẤY BIẾT, dưới mắt Thiền Sư, thấy biết đặng TƯ TƯỞNG, có hàng một tư tưởng cho đến năm, mười tư tưởng trong ngày, tư tưởng phát sinh dài ngắn tùy theo tưởng, tùy theo mức độ của con người, tùy theo sở thích hoặc chưa sở thích nó phát sinh. Nhưng mỗi tư tưởng đều có một mục tiêu hướng dẫn tư tưởng đó, còn phần phụ thuộc tánh chất của tư tưởng có hàng vạn chất phối hợp trong tư tưởng. Khi con người kết nạp tư tưởng để phối hợp tư tưởng gọi là: ĐỊNH TƯỞNG, nơi định tưởng nó tùy theo sự mong mỏi, tùy theo sự khám phá những gì mà con người chưa hiểu biết đang vướng mắc nơi thân tâm, cốt đem lại nơi giải đáp thoải mái con người. Con người thường dùng tư tưởng nung đúc tinh thần phát sanh ra Cảnh Giới sau lúc mạng chung đặng về trong Cảnh Giới đó. Đó chính là một tư tưởng khẳng định, tư tưởng khẳng định tu Tiên Thần vốn thi hành theo chiều hướng nầy mà đến kết quả. Bậc Thiền Sư thấy biết tư tưởng nương theo tư tưởng sát thật chân đế tư tưởng, biết tỏ rõ vốn nó thường tưởng lại hay trú mà trở thành Chúng Sanh Giới. Thiền Sư biết tỏ rõ, thấy vững vàng không cố định, chỉ quán xuyến để giúp con người đồng thời cứu ngay bản thân Tự Ngã chính mình, gọi là CHÁNH ĐỊNH TAM MUỘI.

Khi Thiền Sư nơi Nghe, Thấy, Biết chân thật không Hai Tướng mới tỏ rõ như Tướng, thời dưới mắt Thiền Sư đã từng thấy. LINH HỒN trùm khắp hư không Vũ Trụ Giác Linh cảm ứng nơi Linh Hồn, con người chưa nhận định đặng nơi tư tưởng khởi sanh, phải lần theo khởi sanh, khởi diệt tỏ thấu tư tưởng Bất Diệt mới có Cảm Ứng Linh Hồn cũng thế.

Trong câu chuyện Linh Hồn chính là một phương thức khó giải, vì sao? Vì Linh Hồn kết nạp tạo thành đầy đủ mới hiện sinh, nên khó giải, nó không khác mấy với Nguyên Lực Điện Tử, nên chi có vị Thiền Sư nào chăng nữa giảng nói đến Linh Hồn Chân Đế, thì sự kia cốt cho con người có CẢM GIÁC, chớ chưa thể nào nhận đặng, vì sự nhận chưa đồng, trình độ chân giác chưa có thành thử chưa chung một lối Thấy, chỉ dùng cái nghe thêm nơi đó, có cái TIN lời nói, để tạo thành đôi mắt Thiền Sư, chừng ấy mới tin Thiền Sư đã chỉ về Linh Hồn Bất Diệt. Khi con người đến thật biết tỏ rõ linh hồn bất diệt thì con người đã đoạt Chánh Giác thoát khỏi Vũ Trụ đối với con người.

Đạo Phật đã chỉ Linh Hồn không hai tướng, Linh Hồn Tối Thượng sáng suốt bất biến, quang minh bất tận, con người thường chiêm ngưỡng là Thượng Đế, Phật Đạo cho đó là: ĐẠI NGÃ cái Ta duy nhất. Còn về phần cái Ta trong thân mạng con người hoặc tất cả sanh vật thảy đều là cái Ta tạm bợ gọi là: TIỂU NGÃ GIẢ TƯỞNG. Nơi Tiểu Ngã Giả Tưởng chẳng khác nào yến sáng của viên Bảo Châu, còn Đại Ngã nó như viên bảo châu vậy.

Dưới mắt Thiền Sư thường gọi Linh Hồn là NHƯ LAI, tại sao được gọi là Như Lai? Vì Linh Hồn nó như vậy. Nơi lên xuống của con người Thể Tánh nơi Linh Hồn vẫn Lai Hoàn, nên chi Linh Hồn trùm khắp bất tận không chỉ đặng gọi là Như Lai.

Nơi Thân Mạng của con người đến thân mạng các loài, khi kết nạp thành hình đầy đủ như nhiên có NGHE, THẤY, BIẾT. Sự Nghe-Thấy-Biết chính là từ nơi Đại Ngã, Linh Hồn thể hiện để đồng ứng thân mạng, tùy theo thân mạng đáp ứng. Không khác nào tạo thành chiếc máy điện, chiếc máy ấy tùy theo khả năng điện lực mà xuất phát. Do sự đáp ứng, phát xuất từ NHƯ LAI. ĐẠI NGÃ thể hiện đến con người cùng các loài như thế nên được gọi là ỨNG THÂN. Theo sự Ứng Thân đó Đạo Phật mới nói: “TẤT CẢ CHÚNG SANH, GIAI HỮU PHẬT TÁNH.” Do con người cùng các sanh vật đồng nhất với vũ trụ nên con người mới có thể nhận định đồng tiến đến thông đạt Vũ Trụ làm chủ Vũ Trụ là vậy.

Thiền Sư thật biết. Tại sao gọi là con người với Vũ Trụ đồng nhất? Vũ Trụ có đầy đủ vạn triệu chất kết nạp chung hợp với nhau, liền trở thành Cái BIẾT. Còn con người cũng vạn triệu chất kết nạp chung hợp với nhau tạo nên Thân mạng liền có cái BIẾT. Vũ Trụ là BIỂN CẢ, con người là giọt nước, nơi giọt nước kia tuy nó nhỏ bé nhưng đồng thể chất với Biển Cả, nên gọi là Đồng Nhất.

Thiền Sư tự biết nơi Bản Năng, Khả Năng của mình, tự hiểu từ tư tưởng nầy sang tư tưởng nọ nơi mình từ chỗ chưa hiểu lần nương đặng hiểu về mình, càng hiểu càng biết đặng Vũ Trụ với con người nhịp nhàng để hiểu nhau. Do đó nên chi con người đứng trước nhiều cảnh, nhiều tình gay cấn càng hiểu biết càng nhiều, sự cảm hóa nơi con người nhờ diễn cảnh vũ trụ con người mới đặng hiểu biết. Đôi lúc Thiền Sư tự hỏi: “Có phải Vũ Trụ là Minh Sư ta chăng?” Phải Vũ Trụ là Minh Sư khi ta đã chấp nhận, ta đặng vũ trụ làm mục đề hướng dẫn đưa ta từng hiểu biết, cảm thông. Nếu ta tự hào TA KHÁM PHÁ VŨ TRỤ thì ta chưa bao giờ Khám Phá con người nơi ta đặng, có đâu đi đến khám phá Vũ Trụ. Khi đã khám phá đặng Ta, thì chừng đó Vũ Trụ đương nhiên Ta tỏ thông được biết, đó chính là lời Thiền Sư quyết định.

Dưới mắt Thiền Sư nhìn nhận Đạo Phật đầu tiên nhất, con người phải tự soi lấy mình trước tiên, con người phải khám phá những gì nơi mình trước hết, vì con người là TIỂU VŨ TRỤ, vì con người là Giọt Nước Biển đồng chất với Biển Cả, vì con người là Chủng Tánh có sẵn không khác mấy với NHƯ LAI. Con người có đôi lúc biết nói, nhưng chưa biết nhận lời mình nói. Tại sao biết nói, nhưng chưa nhận đặng lời mình nói? Tại mình hay nói, chớ chưa Thực Hành theo lời mình đã nói, khi con người thực hành lời mình đã nói, chừng đó mới thật mình Biết nói.

Con người cứ mãi tìm xem Linh Hồn mình nó ra sao? Nó như thế nào? Hình dáng nơi nó Tròn, Vuông, Dài, Ngắn, Sáng hoặc Tối đủ phương thức nghĩ ngợi suy tính, nhưng nào có thấy được đến nó. Có bậc nhẹ tính hay nhìn quần chúng để rõ tánh tình quần chúng gọi nó là GIÁC LINH. Có bậc kiểm điểm tư tưởng chia phân tư tưởng từng khối nọ đến khối kia, lập ra trận đồ tư tưởng gọi Linh Hồn là TÌM THỨC THỨ SÁU hay A LẠI GIA THỨC kết thành bộ Duy Thức để biện minh về Linh Hồn, thật ra Linh Hồn trùm khắp không có chỗ chỉ. Chính là NHƯ LAI, nên dùng cái thấy trùm khắp để quán xuyến linh hồn Bất Diệt thì dùng đôi mắt NHƯ LAI NHÃN TẠNG Thiền Môn mới minh xác đặng, bằng lý đoán khó triệt thấu.

Khi con người nhìn thẳng thân tâm mình nhận định tỏ rõ tư tưởng Tánh Tình nơi mình di chuyển từng lúc, từng hồi nhịp nhàng trước vạn lối. Có khi Nóng Giận, Vui Buồn, có lúc tinh thần đẹp tươi vô kể, có khi trực giác thông hiểu hoàn cảnh của con người đối với mình, có lúc lại làm cho con người thế nầy, thế nọ đủ trăm phương vạn cách giữa con người với chính mình.

Liền được hiểu biết nơi Thân có linh hồn sáng suốt bất động quán xuyến tất cả. Nhưng bị thay đổi sống động vì tư tưởng con người chưa tỏ giác, nên chưa nắm vững tư tưởng phải chạy theo tư tưởng, thành thử lanh quanh hiểu biết. Nơi Bản Thân nó khởi sanh vạn Tưởng chung vào đó nó lại có Tánh với Tình diễn hóa mãi không ngừng trở nên Sanh Diệt, Diệt Sanh nhịp nhàng chẳng dứt. Bậc Trí tạm hiểu nó sanh diệt, bậc Thiền Sư tỏ tánh nhờ nhìn nhận thấy biết đặng nó có rất nhiều chất kết nạp nhau trở thành bản chất vận chuyển trong thân mới đặng NGHE, THẤY, BIẾT, cái Nghe Thấy Biết chưa phải là Linh Hồn Tối Thượng, chính nó là một mục tiêu cho con người đoạt đến LINH HỒN TỐI THƯỢNG.

Thiền Sư thường nương theo TÁNH THẤY, đoạt đến CHÂN TÁNH THẤY không hai tướng, bèn dùng Tưởng Quán Như Lai soi thấy các cõi VÔ HÌNH, đối với con người chưa thấy được, Thiền Sư đã thấy.

Làm thế nào nương theo Tánh Thấy, đoạt đến cái Thấy Chân Như, Thấy không hai tướng để nhận được các cõi Vô Hình trước con người chưa thấy, mà Thiền Sư lại thấy?

Khi Thiền Sư thấy, Thiền Sư chưa vội chấp nhận cảnh thấy nơi mình là thật. Từ nơi tư tưởng phát sanh cho đến tư tưởng diệt, từ nơi bản tánh phất khởi cho đến bản tánh thối lui, Thiền Sư thảy đều soi sáng từng lúc, từng hồi để nhìn thấy tư tưởng, nhìn thấy bản tánh nơi mình. Khi Thân Tâm rõ thấu tận cùng tư tưởng, tận cùng bản tánh của mình cùng với nơi con người trùm khắp, Thiền Sư đặng biết tỏ rõ, nhưng đối với con người làm sao biết đặng. Lúc con người thay đổi nơi thấy là do tư tưởng hiệp tánh thấy trở thành cái thấy nơi con người, cho nên đối với con người nhìn thấy nơi chung quanh mình toàn là hoàn cảnh tái diễn bao vây. Còn đứng hàng Bồ Tát thời nhìn thấy vạn pháp xoay chiều Thuận Nghịch phản chiếu, nên Bồ Tát nhiếp thu vạn pháp. Đứng nơi Phật Trí nhìn thấy Diệu Dụng Như Lai, Hạnh Nguyện Bồ Tát nó như thế, đó chính là Thiền Sư đã thật rõ quyết định.

Đứng trước hoàn cảnh con người, con người thường chấp nhận là có Ma, nên đến nhờ ThiềnSư cứu giúp. Thiền Sư vẫn gật đầu chấp nhận cứu giúp, như thế thì hồn Ma đã có nên Thiền Sư mới chấp nhận, nếu không có Ma thì Thiền Sư chối từ nào có gật đầu hứa chịu.

Khi bấy giờ Thiền Sư đến nơi để giúp, giúp rất kết quả hoàn mỹ. Tại sao lại có Ma quả nhiên đúng như thế? Vì Thiền Sư đã điều ngự bản năng, điều ngự MA TÁNH nơi chu thân Thiền Sư, Ma Tánh ấy dưới sự điều khiển của Thiền Sư, nên chi Thiền Sư vừa đến nơi ngoại cảnh và Thân Tâm Thiền Sư giao cảm phối hợp nhau liền có một Loài Ma, từ nơi thân Thiền Sư phát ra, đứng trước mặt Thiền Sư thưa gởi:

“Kính thưa Thiền Sư, loài Ma nơi nhà nầy, nơi chốn nầy, trước kia đang còn tại thế bản tánh hay gạt gẫm kẻ khác để thỏa mãn ăn uống nhu cầu mình cho sung sướng. Sau bị nhiều kẻ mắng nhiếc la rầy, chẳng biết hối cải, chỉ một lòng thù hận liền xãy đến việc chém giết, nên trở thành loài Ma phá rối. Chính bản năng nơi con ngày trước cũng như thế, may nhờ Ngài hóa giải nên con mới đặng như ngày nay. Vậy Ngài cho con được phép cứu giải cho hắn.”

Thiền Sư gật đầu, niệm chú chấp nhận. Loài Ma nơi Thiền Sư, cùng với loài Ma bên ngoài nói năng chốc lát, hàng phục liền hóa sanh, loài ma phá phách được siêu độ. Đó chính là một việc Thiền Sư cứu độ vậy.

Có một hôm Thiền Sư đến trãng núi, đến khu rừng đang ngồi an dưỡng. Bỗng nhiên trời mây u ám, hơi lạnh bốc ra, âm khí nỗi dậy làm cho cây lá chuyển mình, tai nghe tiếng rên rỉ thảm thê in tuồng van lạy, mắt thấy khói đen pha lẫn trắng xanh đang quay quần bên Thiền Sư. Thiền Sư thật biết vong hồn u ẩn đang cầu cứu những gì, nên chi Thiền Sư tay bắt ấn, niệm khẩu chú, sau lúc đó có một Quái Tặc nơi thân Thiền Sư hiện ra vòng tay thưa thỉnh:

Kính thưa Thiền Sư, khu rừng và dãy núi nầy, bảy trăm năm về trước, có một bọn Quái Tặc cướp bóc, giết người chẳng gớm tay, chúng chưa tin hậu quả là gì, miễm sao chúng cướp cho nhiều của cải chúng hoành hành tàn nhẫn. Đến sau có trận cuồng phong cây rừng doanh trại của chúng bị tàn phá, lương thực chúng đều hư hại, không còn đủ cho chúng tiêu dùng, phần thì quan quân lúc bấy giờ đang chăm vào chúng, dân giả khiếp sợ chúng chẳng dám vãng lai, làm cho chúng nhịn đói chết lần. Khi ấy chúng hối hận, chúng nói “Tiền bạc, vàng ngọc không thể nuôi ta đặng sống, chỉ có gạo thóc với tình thương mới bảo toàn thân mạng chúng ta mà thôi.”

Hôm nay chúng gặp phải Thiền Sư, Thiền Sư có nhiều đức tánh giao cảm đồng ứng nên chúng biết mà đến mong Thiền Sư cho lệnh Siêu Thoát chúng. Tôi xin thừa hành lệnh chung cùng nói năng chúng, cũng chuộc lại tội lỗi nơi tôi ngày trước có chủng tánh Quái Tặc như chúng.

Thưa xong Quái Tặc đứng lại một bên chờ lệnh. Thiền Sư gật đầu, miệng phát ra tiếng Thổ Âm, tất cả khu rừng chuyển động, tự nhiên trời thanh gió mát, không khí trở lại bình thường. Bọn Quái Tặc được siêu độ vào Thiền Âm Tự tu hành, ngày sau siêu thoát.

Theo như thường lệ, Thiền Sư đi bát xong trở về Tịnh Thất. Đến đầu làng chỉ có một con đường duy nhất vào làng. Bỗng nghe tiếng hét la của Thiếu Nữ, vẻ mặt thiếu nữ sợ hãi, miệng đang gào. Sau lưng có một số người đuổi theo thiếu nữ, thiếu nữ vừa chạy giáp mặt Thiền Sư, thiếu nữ dừng lại nhìn Thiền Sư in tuồng cầu cứu. Thiền Sư bảo:

“Con hãy quỳ xuống.” Thiếu nữ ngoan ngoãn qùy trước mặt Thiền Sư ,lúc bấy giờ vẻ mặt Thiền Sư trang nghiêm khó tả, Thiền Sư đưa tay ấn chứng, miệng lâm râm ấn chứng, xong bảo thiếu nữ về yên nghĩ, thiếu nữ hồi tỉnh trở về.

Đến mấy hôm sau, thiếu nữ cùng đi với bà Cụ, đến Tịnh Thất lễ bái. Thiếu nữ quỳ thưa:

“Kính bạch Thiền Sư, hôm trước con đi ngang qua Miếu Võ, đương nhiên con thấy một khối lửa từ trong miếu bay ra, con phát sợ, thân mình rung chuyển, con nhìn khối lửa không còn thấy rõ ràng vị Thần hung tợn vươn hai tay định bắt con. Con đâm đầu chạy hét la cầu cứu, con chạy trên tất cả gai, chạy qua gò mả như chạy ở đất liền, vị thần chưa chịu buông tha, con càng chạy nhanh bao nhiêu thì vị thần chạy mau bấy nhiêu sát gần đến con. May thay gặp Thiền Sư giải cứu. Đến giờ phút nầy con quỳ trước mặt Thiền Sư, vì con tin lời mẹ con bảo, chớ tâm còn đang nghi ngờ, vì sao? Vì hôm trước con gặp vị Thiền Sư chưa phải là vị Thiền Sư ngày nay con gặp. Lạ thay! Lạ thay! Vị Thiền Sư con gặp, vị ấy có rất nhiều tay, đầu Ngài đội Kim Khôi, mình Ngài mặc Huỳnh Giáp, hào quang sáng tỏa một vùng, tiếng nói khác thường trong thiên hạ, làm cho vị Hung Thần sợ hãi đảnh lễ Ngài, buông tha con, hiện tình bây giờ con đang phân vân chưa biết giải. Tại sao cái thấy lúc đó đến nơi thấy bây giờ khác biệt. Kính mong Thiền Sư cứu mạng con bằng tư tưởng ổn định cho con yên tâm.”

Thưa thỉnh xong ngồi lại một bên. Thiền Sư suy nghĩ. Ta có nên nói thật không? Nếu Ta nói chủng tánh Giả Tưởng làm sao thiếu nữ nghe đặng, nếu như Ta nói thiếu nữ có tính nóng đồng thời gặp đặng hai tánh hiệp nhất hóa sinh ra nơi thấy đồng đẳng làm sao thiếu nữ hiểu đặng.

Nếu Ta nói Ta dụng Thần Thánh hóa thân Chuẩn Đề thu phục Hung Thần thì làm sao thiếu nữ tin nghe đặng, nếu Ta nói hiện giờ Ta ngồi đây, nhưng lát nữa Ta hóa thân ra khi có người đến dự kiến hoặc nói mỗi ngày như thể Ta tự hóa ra trăm thân trở về với một thân thì thiếu nữ kia nào có hiểu được tí nào. Nói như thế chưa có lợi, nói như vậy chưa có ích lại thêm vào thiếu nữ vọng tưởng đảo điên. Thiền Sư suy nghĩ liền giải đáp:

Nầy Thiện nữ, tính nơi thiếu nữ tốt có tạo phước nhiều, nên chi gặp phải Hung Thần xảy ra điều không hay, liền gặp Đức Chuẩn Đề ứng hiện bên Ta mà cứu mạng. Vậy kể từ nay cho đến sau, Thiện Nữ nên Niệm Phật, nên tu tâm, sửa tánh, giải tỏa những tánh nóng cầu lấy chư Phật gia hộ. Nghe xong thiếu nữ mừng rỡ trở về tu tâm, sửa tánh thành con người hiền đức.

Tại sao lại có Hồn Ma cùng Hồn Quái Tặc đến hồn của Hung Thần từ nơi thân Thiền Sư xuất hiện để cứu độ trên đã nói? Chính Thiền Sư thật biết toàn thân nơi con người, có một Linh Hồn duy nhất bất diệt, ngoài linh hồn bất diệt còn có Bá Thiên vạn triệu Bản Ngã Giả Tưởng, gọi nó là TIỂU NGÃ. Con người lầm tưởng Tiểu Ngã Giả Tưởng kia là linh hồn mình, nên nương tựa theo Giả Tưởng để sống nơi lý tưởng thường tưởng định tưởng, chớ nào biết sống Linh Hồn ĐẠI NGÃ Anh Linh bất diệt, vì vậy nên tìm không tỏ rõ, không thể nào ra Linh Hồn Bất Diệt. Những Giả Tưởng đó chính là Chủng Tánh nó chia ra nhiều lớp, nhiều giai cấp, nhiều thứ tự, nhiều cử chỉ trạng thái khác nhau diễn giải không hết đặng, nó có từ PHẬT CHỦNG đến Thánh Chủng qua Tiên, Thiên Chủng, Thần Thánh Chủng cùng Yêu Tinh, Ma Quái Chủng, vì nơi Lầm ấy mà con người tạo thành Tam Thiên Tam Giới, Lục Đạo các Cõi các Cảnh Giới, gọi là Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, trong Tam Thiên còn có rất nhiều Cảnh Giới, nhiều Cõi, nhiều Loài sinh sống khác biệt nhau như: Thế Giới có loài đi ngang, loài đi ngữa, loài đi đứng, loài đi nằm, loài đi ngược, loài đi bò, loài đi lết, loài đi trường, loài đi nhảy, loài đi khum, loài vô trí, loài vô thức, loài vô nhân, loài vô tác, loài đinh, còn hằng hà sa số các cõi, các cảnh giới không thể nào nói hết.

Con người đang bị sống theo TIỂU NGÃ GIẢ TƯỞNG đương nhiên phải dùng tưởng để mà sống, ngoài ra không còn cách chi khác nữa. Con người trong bá thiên vạn Tiểu Ngã lầm chọn lấy một NGÃ làm linh hồn mình thì đương nhiên phải tùy thuộc nơi Ngã ấy, cho nên đứng trong phương diện mà nói thì chọn lấy NGÃ nào phải tùy thuộc nếp sống từ cử chỉ đến ngôn hạnh nơi Ngã đó mà hành sự. Nếu có ai chỉ trích rằng: “Ông thế nọ hoặc ông thế kia, làm như thế là sai.” thì người ấy liền cãi không CHẤP NHẬN nơi sai của mình, trái lại phản đối sự chỉ trích trên. Từ các bậc Thánh với Con Người, từ bậc Hiền Triết, Siêu Nhân với Con Người nó khác nhau như thế nào? Nó có khác hơn con Người ở nơi lìa Ngã Tưởng nhiều ít mà thành chớ chẳng khác hơn con người chi cả. Còn bậc ĐẠI NGÃ TỐI THƯỢNG khác hơn con người ở nơi thu nhiếp hàng phục tất cả GIẢ TƯỞNG về với chính mình điều hành Giả Tưởng không mắc míu lấy một Giả Tưởng. Chẳng khác nào một Lãnh Tụ chung khắp toàn dân, lãnh tụ có quyền điều khiển chớ chưa phải Lãnh Tụ là người dân.

Cứ nhìn theo lời nói trên để tự chấp nhận được biết, trong thân thể CHẤP NHẬN có rất nhiều Giả Tưởng Bản Ngã, mỗi Giả Tưởng là một chất nơi nó con người dung dưỡng tánh chất ấy, sau khi nó thành hình nó đã trưởng thành, thân mạng con người suy yếu đến Mãn Phần, gọi là CHẾT thời con người ấy nó về nơi nó đã từng vun trồng nuôi dưỡng. Lời nầy đã từng nói nhiều nhưng con người chưa lãnh hội đặng, mà Đạo Phật đã giải xong trên bước đường SANH TỬ LUÂN HỒI.

Đạo Phật từng biết con người lầm lẫn, con người vốn sẵn đồng thể với Vũ Trụ, đồng chủng với Vũ Trụ, đồng hành với Vũ Trụ, đồng có Linh Hồn Tối Thượng y như Vũ Trụ, đồng di chuyển linh động, từ hơi thở đến hơi nóng, tánh lạnh, cứng cỏi và mềm dẻo như Vũ Trụ không khác.

Vũ Trụ đã biết sử dụng, còn con người chưa biết sử dụng nên mới bị sanh chớ chưa được sanh như Vũ Trụ sanh ra con người.

Tại sao Vũ Trụ biết sử dụng?

Vũ Trụ biết sử dụng nên trong vũ trụ có hằng hà sa số thế giới, các thế giới từng lớp lang thảy đều sống theo lớp lang của mình chẳng bao giờ lộn xộn. Vũ Trụ biết sử dụng thể hiện ra từng loài, mỗi loài thảy đều có tác động nơi nó chớ chẳng bao giờ tác động khác nhau. Từng nơi hiểu biết từng loài cho đến sự hiểu biết từng cõi, từng cảnh giới, từng địa phương, từng trình độ, từng hoàn cảnh mỗi mỗi thảy đều có thế hệ, đều có trí tuệ, đều có linh tánh, đều có trực biết, đều có giác nguyên, đều có rốt ráo hoặc giả chưa rốt ráo, do Vũ Trụ biết sử dụng ban hành như thế nào, tất cả thảy đều y như thế không sai chạy. Có người lầm tưởng cho lời nói nầy là thuyết Định Mệnh chẳng phải thế đâu, đây chỉ biết nói thẳng, đồng chỉ thẳng VŨ TRỤ BIẾT SỬ DỤNG. Con người chưa biết sử dụng, nếu biết sử dụng thì đoạt đến Vũ Trụ thoát sanh khỏi Vũ Trụ.

Vũ Trụ còn biết kết nạp, biết hóa chất, biết biến chất, biết phân định, biết dung dưỡng, biết tất cả lý sự dưỡng sinh từng nơi chốn. Có nơi thời ban thanh khí, có chỗ ban thấp khí, có chốn ban không khí, cứ mỗi nơi, mỗi chỗ, mỗi chốn trong thế giới cùng các Cõi, các Cảnh Giới thảy đều tùy thuộc khí hậu mà dung dưỡng đủ loài. Lại biết phân định, biết biến chất, Vũ Trụ phân định loài cây cỏ nào biến chất hợp hóa chi làm cho các loài cây trái mỗi thứ thảy đều có bản chất nơi nó trên Vũ Trụ nầy. Từ nơi hóa chất kết nạp giữa hư không đầy đủ bá thiên vạn ức chất di chuyển kết nạp liền hóa chất cung đốn dung dưỡng cho tất cả Sơn Hà Đại Địa cùng nhiều cảnh giới vô kể đặng.

Một khi Thiền Sư biết đặng Vũ Trụ biết sử dụng, biết kết nạp hóa chất biến chất, biết phân định dung dưỡng, Thiền Sư liền đem ra áp dụng. Cứ mỗi một TIỂU NGÃ phân định nó như thế nào. Mỗi một tánh chất nầy, cùng tánh chất kia hợp giải nó ra thế nào. Từ nơi Hữu Tướng dụng Định Tưởng trở thành Hữu Phi đồng đẳng, kết nạp nhau nó hóa chất, biến chất, thành ra Cõi chi, nhờ như thế mà Thiền Sư mới thấy tất cả thế giới HỮU VÔ như thấy bản đồ thật sự.

Lúc Nghe, Thấy, Biết nơi Thiền Sư tinh nhuệ thì nhìn đâu biết đó, nơi biết không thể diễn nói đặng, biết rất tỉ mỉ chân thật vượt tầm. Khi Thiền Sư nói ra hoặc giả viết vào văn tự cũng chưa đầy đủ ý nghĩa để nói lên cái biết chính mình. Dù cho có bậc nghe đặng một phần nào thì phần ấy nó cũng thuộc về Giả Tưởng đặng nghe thôi.

Có một hôm Thiền Sư cùng một số đi du ngoạn đến gành đá bên bờ biển. Thiền Sư tĩnh tọa còn số người kia kẻ ngồi ngắm cảnh, người ngó biển khơi, trời mát mẻ, sóng biển vỗ đều đặn, mặt nước xanh xanh, Thiền Sư vớt con Ốc Quắn dài độ hơn một tấc, màu vàng nhạt, đặt con ốc trên lòng bàn tay. Con ốc ló đầu ra nhìn Thiền Sư, Thiền Sư lẩm bẩm nói:

“Tại sao ông không chịu ra, tại sao ông xây bảo tháp cứ ngồi mãi trong đó. Phải chịu như thế nầy, nên ra, nên ra nhận Vũ Trụ Sơn Hà cùng khắp là Bảo Tháp, rộng rãi hơn, thoải mái hơn, hãy ra đi, nên ra đi.”

Thiền Sư vừa dứt lời, con ốc bò ra khỏi vỏ, bò chuyền trên tay Thiền Sư, nhẹ nhàng Thiền Sư đặt con ốc xuống nước.

Lạ thay! Lạ thay! Con Ốc trước khi từ giã gật đầu in tuồng thiện cảm, Thiền Sư mĩm cười chú nguyện. Một chốc sau đương nhiên có ngọn sóng dâng cao hơn tất cả các con sóng thường lệ, có lưu tâm mới thấy đặng, số người thưa hỏi Thiền Sư:

“Kính thưa Thiền Sư, duyên gì con ốc được Thiền Sư chú nguyện, con ốc bò ra khỏi vỏ? Xin Thiền Sư cho chúng tôi được nghe.”

Lúc bấy giờ Thiền Sư trầm lặng chậm rãi đáp:

Các ông hãy nghe đây: Thời xưa có vị Trưởng Giả họ Chu tên Kỳ, lúc bấy giờ Ta là Hàn Sĩ Tu Trì, nhân một buổi Ta đi qua nhà gặp Trưởng Giả mời vào, lại đãi Ta một bữa cơm, cơm nước xong Trưởng Giả nói:

Kính thưa Hàn Sĩ, tôi tự nghĩ, đối với tôi có sẵn bạc tiền, có sẵn tất cả tiện nghi không thiếu sót, cứ để nó như thế nầy không ích lợi chi, nên tôi muốn xây tòa Bảo Tháp, trên thờ Phật, dưới tu trì, may ra thân tâm thoải mái.” Ta vừa nghe như thế hưởng ứng tán thành.

Sau ba năm Ta trở lại, tỏa Bảo Tháp đã xây xong, Trưởng Giả gặp Ta mừng rỡ, đưa Ta dạo khắp tòa Bảo Tháp, Ta đi từ trong ra ngoài, từ dưới lên trên, tòa Bảo Tháp tựa in hình con ốc ngày nay. Khi bấy giờ Ta có thịnh tình đối với Trưởng Giả nên Ta hứa, sau nầy Ta đoạt Vô Thượng Ta sẽ giúp đỡ cho Trưởng Giả đồng thời Trưởng Giả phải nghe Ta, đến nay lời hứa thật sự mà Trưởng Giả đã nghe Ta, nên mới có chuyện ở nơi trước mắt các ông.”

Tất cả số người đứng lên thưa thỉnh: “Vì sao Trưởng Giả lại chịu báo thân hình con ốc”

Thiền Sư đáp: Nơi Phước Báo hay chỗ Chịu Báo chưa phải con người đang ở chỗ giàu sang nhà cao cửa lớn mà sau nầy được đầu thai vào chỗ sang cả. Các ông nhìn như thế chưa Đúng với chỗ con người sau khi chết sẽ về đâu. Các ông nên nhớ bản năng tâm thức nơi con người phải vượt qua tất cả tập quán nhỏ nhen, tâm chí thù hận, tánh nết gạt gẫm, cử chỉ điêu thoa, mong sao cho mình có lợi, ngoài ra mặc nhiên không biết đến, lề lối như thế dù cho nơi kiếp hiện tại làm quan quyền hay giàu có cho mấy chăng vẫn bị sa đọa. Khi ông Trưởng Giả Chu Kỳ đặng phước báo có cơ hội xây Bảo Tháp thì chính nơi thân mạng ông ấy phải Tâm Thức sửa đổi tánh tình, chớ nên ỷ lại tiền bạc, vượt qua tất cả ích kỷ khinh người để tu thì Bảo Tháp mới có giá trị. Chớ cứ ôm lòng Tự Ngã, nuôi mộng vọng tham không phát sanh phước điền, chưa làm gì cho thân tâm ích lợi, đó gọi là tu Bảo Tháp chớ chưa tu thân mạng. Nên chi trong một thời nơi Công Đức trước nay đã tiêu dùng hết phước làm gì không chịu báo vào con ốc.”

“Kính thưa Thiền Sư, vì duyên gì, vì phước chi Trưởng Giả đặng một kiếp sung sướng như thế?”

Thiền Sư nói: “Các ông nên biết, đứng làm con người luôn luôn mỗi một kiếp nó có một cơ hội, cơ hội ấy nó gặp dịp may phát triển hay gặp nhân duyên phát sanh, khi có nhân duyên phát sanh chẳng chịu phát sanh thời nó vẫn diệt, lúc gặp dịp phát triển chưa chịu phát triển vẫn bị đói nghèo.

Có một kiếp Trưởng Giả gặp đức Nhiên Đăng Phật ra đời, Chu Kỳ Trưởng Giả tuổi đã quá cao, nghe tin Phật, bèn tùng theo với một số người đến lễ bái, lễ bái xong ngồi lại một bên, đương nhiên Chu Kỳ nhìn thấy ĐÔI DÉP đức Phật, dưới ghế tòa Sư Tử bị lệch, Trưởng Giả quỳ sát gần sửa đôi dép lại cho ngay ngắn, đức Nhiên Đăng nhìn thấy, chứng minh Công Đức một kiếp có Nhân Duyên, một đời sung sướng. Sự Chứng Minh nơi đức Phật cho Trưởng Giả nên mới gặp Ta, đồng thời khởi sanh Tâm xây Bảo Tháp. Khi Ta đến lần thứ hai thăm viếng, sau khi Ta đi thời Trưởng Giả dùng nơi Bảo Tháp sống cho yên thân, tu trong hình thức an lành chớ chưa biết chính mình phải sửa đổi, như ta thường nói, Trưởng Giả cứ theo quan niệm tuổi thọ kéo dài khá lâu, đến ngày lâm chung mến tiếc nên chịu báo trong hình thức con ốc vậy.”

Lúc bấy giờ Thiền Sư giảng giải xong, chúng tôi vẫn ngồi yên, trời mát mẻ, tiếng sóng vỗ êm đềm. Thiền Sư nói tiếp:....

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN