- 1. TẬP DƯỚI SỰ NHẬN ĐỊNH VŨ TRỤ VỚI CON NGƯỜI
- 2. TÓM LƯỢC
- 3. BẢN NĂNG KHẢ NĂNG CON NGƯỜI
- 4. ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI
- 5. DƯỚI MẮT THIỀN SƯ ĐỐI VỚI VŨ TRỤ
- 6. VŨ TRỤ LÀ MỘT KHO TẠNG HÀM CHỨA
- 7. VŨ TRỤ ĐỐI VỚI CON NGƯỜI
- 8. THỂ CHẤT CÙNG TIỂU NGÃ GIẢ TƯỞNG ĐỒNG NHẤT
- 9. TIỂU NGÃ CỦA CÁC ÔNG TRẢI KHẮP VŨ TRỤ
- 10. XUẤT ĐỊNH NHẬP CẢNH TÙY THUẬN THEO TIỂU NGÃ
- 11. THỂ CHẤT TÁNH CHẤT NGUYÊN TINH NHƯ THẾ NÀO?
- 12. BẬC THÁNH TĂNG THOÁT SANH NHƯ THẾ NÀO?
- 13. DƯỚI SỰ NHẬN ĐỊNH CON NGƯỜI VỚI VŨ TRỤ
Tánh nơi nguyên tinh tất cả Vũ Trụ đến Sơn Hà Đại Địa, Cây Cảnh, Núi Sông đến muôn loài vạn vật thảy có nó đáp ứng đem cái sống linh động tăng trưởng cho tất cả, nếu vật chi thuộc về thiên nhiên hóa sanh đều có chất nguyên tinh dung dưỡng, bằng nhân tạo thì chẳng có chất nguyên tinh bồi dưỡng, vì vậy nên chi thiên nhiên hóa sanh sống lâu bền bỉ, còn nhân tạo mau hư, mau hủy diệt.
Tánh Chất Nguyên Tinh không làm cách gì ngăn chận nó nổi, nó có thể xuyên qua bộ xương để cung cấp bộ xương đặng sống, nó xuyên qua mạch máu, gan phèo phổi cùng bao tử cho đến các tế bào để đem chất sống cho con người, con người từ bấy lâu nay chỉ biết mình đầy đủ thân thể ruột gan không thiếu sót là SỐNG, khi ốm đau hoặc thiếu ăn thân thể uể oải bệnh rồi chết, chớ nào ngờ nơi ăn uống bồi dưỡng cả vật chất lẫn tinh thần không có nguyên tinh thì con người thiếu linh động, thiếu chất Sống con người phải chết.
Chất NGUYÊN TINH là một chất động cơ thúc đẩy trong thân thể con người dù cho đầy đủ bộ phận đi nữa chăng, không có chất Nguyên Tinh cũng không thể nào thúc đẩy các bộ phận làm việc, khi các bộ phận không làm việc thì con người không thể sống. Từ Vũ Trụ đến vạn vật đều phải như thế.
Chất Nguyên Tinh nó xuyên qua cũng như lằn điện tử, các lằn sóng điện phát thanh hay vô tuyến truyền hình, dù cho con người đậy kín thế nào nó xuyên qua cũng đặng. Nếu con người biết dùng chất Nguyên Tinh thời con người sống lâu tùy nơi mình gìn giữ nó.
Các bậc tu Tiên đến lúc gần thành Tiên vẫn dùng chất nầy để bồi dưỡng thân thể tráng kiện, họ gọi là SANH KHÍ, có phái dùng chất Nguyên Tinh tập trung nơi tinh thần xuất định lên các cõi Tiên Thần được gọi là TINH KHÍ THẦN, chất nầy sẵn có trong Vũ Trụ trùm khắp. Con người mau già hoặc chậm già vì lo nghĩ ưu phiền thì chất nguyên tinh ít thu nhận được trở nên hư hao gầy ốm, nếu giải buồn phiền ưu tư lòng thoải mái tươi đẹp thì chất nầy nuôi dưỡng mãi lâu già.
Chất Nguyên Tinh nó giúp cho bộ óc hữu hiệu nhất, theo Khoa Học họ đem bộ óc con người ra thực nghiệm nào là bộ óc đường máu hở hoặc giả bộ óc xanh xanh tím tím là thông minh, hoặc lớn hay nhỏ tùy theo nơi thực nghiệm Khoa Học mà minh xác. Đối với nhà Thần Thoại Học họ chỉ thân tâm thoải mái, mỗi sự việc chi đưa đến họ tìm các hóa giải, khi tư tưởng khởi sanh, mặc nhiên để tư tưởng phát sanh họ liền hóa giải tư tưởng liền mở mang lần tiến. Không khác nào người khai mương nước đọng đến đâu khai thông đến đó, đối với bậc mở mang bộ óc cũng như thế. Chưa phải con người họ đã ngu, chỉ vì chưa biết sử dụng khai hoa bộ óc, biết khai hoa đến đâu thời chất nguyên tinh động cơ thúc đẩy đến đó, miễn con người đừng cố thủ lấy mình đương nhiên thông thái. Phần nhiều những nhà Thông Thái Học họ ít muốn mang những câu chuyện bé nhỏ vào thân tâm, nên chi họ tiếp nhận nơi bộ óc nhiều sáng kiến, họ chỉ lấy sáng kiến hay hóa giải theo Triết Học nên được bộ óc tiến hóa.
Đối với các Cõi như Cõi Tiên họ dùng THANH làm vi bản, chất Thanh nhiếp thu đặng nhiều Nguyên Tinh Chất đồng hòa hợp với hư không trở thành thanh thoát mà đặng chất Nguyên Tinh cung cấp nhiều nên chi tuổi thọ họ sống lâu. Còn con người từ chất hư không, chất khí hậu đồng hòa chất nguyên tinh nó có pha lẫn chất thô nên tuổi thọ chưa đặng bao nhiêu, do đó nên công dụng về tinh thần nhiếp thu chất nguyên tinh để nuôi thân.
Bậc TIÊN ĐẠO thường dùng cặp mắt có một chiều ưa xuất trần lao, lọc bỏ chất Thô tạo thành Thanh Chất thành ra riêng có mỗi một phần lấy mình huân tập thành hình. Còn đối với dưới mắt Thiền Sư soi nhìn trùm khắp nên thật biết đặng chất NGUYÊN TINH quí vô giá, nơi nào, chỗ nào cũng sẵn có chất nguyên tinh, miễn con người dụng tâm vui vẻ, dùng trí sáng soi, dùng thân ăn ngủ điều độ, tất cả những chuyện vặc mắc bỏ qua nuôi lấy tinh thần thư thả liền nhiếp thu nguyên tinh vào để nuôi thân mạng. Chất nầy tinh vi nguyên thể tùy theo tư tưởng trình độ cung cấp tăng trưởng không ngưng, duy chỉ ưu phiền, tự mang lấy buồn bực thì nó tiếp thu rất ít, chỉ xuyên qua nuôi thân thể phần nào biết cách sử dụng lấy nó có ích lợi vô kể. Nguyên Tinh nó không có thẩm quyền đem đến Cái Biết viên thông cho con người, nhưng nó có Tánh Chất viễn thông chạy mãi không ngừng, nhờ tất cả các chất phối hợp nhau trở thành Cái Biết viên thông tự tại, nếu như không có nó thì tất cả nằm yên đình trệ tất cả không có lấy Tia Sống, chính nó là một nguồn sống nơi hy vọng của con người, lúc con người có tia sống, có hy vọng để mà sống, chớ nên đặt hy vọng ấy thái quá đến ngày kia đến nơi Tuyệt Vọng thì chất nguyên tinh bị đình trệ nguy hại vô cùng.
Nguyên Tinh là một chất Sống, nó có đều đặn từ thời Vô Thủy, thời nào đối với chất nguyên tinh không giảm, không khí thì có thời đầy đủ, có thời giảm chớ nguyên tinh không giảm, duy chỉ con người ưu tư buồn phiền theo diễn cảnh mà giảm đó thôi, chớ thật ra nguyên tinh không giảm. Tại sao không khí bị giảm? Không Khí bị giảm do trái Đất già chưa đủ chất nên bị giảm.
Kể từ ngàn ngàn năm xưa, chất nguyên tinh vẫn một mức trung bình không tăng giảm. Nhưng thời xưa con người ít tư tưởng, ít phóng đạt nên ít có Bối Cảnh, con người thời ấy rất bình dị đơn giản, họ sống một lối yên thân đều đặn. Các ông nên nhận thức, họ sống bình dị đơn giản, chớ không phải con người sống vô tư, nếu con người thời đại nào mà cái lối sống vô tư yên phận hèn yếu bạc nhược, nếu sống bạc nhược vô tư yên phận thì cũng ít thu nhận đặng Nguyên Tinh, nên nhớ lấy.
Thời xưa tuy nhiên ít tư tưởng nhưng tư tưởng khỏi lầm vào Giả Tưởng quá nhiều như ngày hôm nay, họ có một tư tưởng thực chất, họ có một tinh thần bất khuất tất cả những điều vô lý trí, họ đầy nhiệt huyết kiên hùng, họ cũng xây dựng thành quách, họ cũng đắp đặng con đê vạn dặm ngàn khối đất ngăn nước khỏi hại dân, do nơi tư tưởng thực chất đều đặn mà thu nhiếp Nguyên Tinh bồi dưỡng thân thể tráng kiện, sống lâu trăm tuổi, trong thời nầy con người có thể làm được, cũng vận động cơ thể cho mạch máu điều hòa, tinh thần vui vẽ liền thu thập đặng chất nguyên tinh, thân đặng tráng kiện, ý chí phục vụ giúp cho con người sống trong căn bản thiết thực.
Con người sống trong thời tiến bộ bao nhiêu lại càng công dụng sức khỏe bấy nhiêu, càng văn minh bao nhiêu lại càng làm cho tinh thần thoải mái bấy nhiêu, nên y học, khoa học mới phục vụ cho con người đứng trước thời đại tiến hóa. Đối với Đạo Phật vốn có nền văn minh tột đỉnh, vốn có sẵn đức tánh tiến bộ cung đốn giúp con người bất thối trước giai đoạn khó khăn, do tại con người đa số hèn yếu không vươn mình theo như lời Đạo Phật dạy phải THÙ THẮNG giải quyết khó khăn, phải tranh đấu bản thân nơi nghiệp thức, chớ lười trễ cầu an mà trở thành CHỒI KHÔ MỘNG LÉP, chớ nên tâm chí hẹp hòi làm cho con người lầm tưởng Đạo Phật TIÊU CỰC. Đạo Phật rộng rãi bao la, khám phá Vũ Trụ chớ ngồi yên chờ sẵn mà thiên hạ lầm nhận Đạo Phật bé nhỏ, dù vô tình hay cố ý chính mình tự đem Đạo Phật vào LỔ CHÂN TRÂU.
Đạo Phật đã từng biết nơi tuổi thọ của con người bị tiêu giảm lần xuống, vì nơi giả tưởng tâm ý ngăn cách quá nhiều trở thành eo hẹp. Từ nơi hấp thụ Nguyên Tinh bồi dưỡng đầy đủ trở thành nguyên tinh yếu kém nhiếp thu vào thân thể thiếu hụt mà tuổi thọ phải tiêu giảm. Con người nào có hay biết tuổi thọ bị tiêu giảm lần chính mình tự gây tạo ra nó, lại quan niệm trời bắt giảm mình, hoặc thời nầy hay thời nọ tăng tuổi hoặc giảm tuổi, nếu con người biết được vì quá lo âu, quá sợ sệt làm giảm tuổi thọ thời con người thư thả thân tâm để tiếp nhận Nguyên Tinh tuổi thọ bắt đầu nâng cao lần. Theo tài liệu của Đạo Phật, con người từ khởi sanh thì chưa biết được có từ bao thế kỷ, đến lúc khai sanh con người tuổi thọ 8.000 (tám ngàn) tuổi một kiếp, sau bị tiêu giảm lần đến nay không đầy một trăm năm một kiếp, một kiếp hiện tại gọi là một thế kỷ. Như thế thời chắc hẳn con người thảy đều biết rõ, nhưng con người chưa biết tại sao tiêu giảm, chưa biết đặng chất NGUYÊN TINH là một chất SỐNG đem đến cho con người. Các Tôn Giáo thi hành tâm thanh thoát tư tưởng khoát đạt, trí tuệ bao dung thì chính những bậc ấy chỉ biết có bao nhiêu đó thôi, nào có gì khác nữa. Giờ phút nầy Hạ Lai Mạt Pháp sắp tàn canh, Chánh Pháp đã ra đời đem đến Nguyên Tinh chất hoa khai Tạng trổ cho con người biết đặng chất Nguyên Tinh làm tăng tuổi thọ mà thực hành hưởng lấy.
Đối với con người nghe được, biết được ban đầu thi hành thì rất khó, chớ các bậc tu Thiền chẳng lấy chi làm khó, dù ít nhiều vẫn thi hành đặng. Bậc Thiền Tọa đến mức khá cao thực hành một thời gian sở đắc CHÁNH ĐỊNH TAM MUỘI thì hoàn toàn điều khiển, hoàn toàn sử dụng Nguyên Tinh, nhờ nơi thúc đẩy không ngừng phát sanh rốt ráo nên mới đoạt đến Vũ Trụ tương quan nhịp nhàng chung Chánh Định.
Chất Nguyên Tinh rất có lợi cho các bậc tu Thiền Tọa, nhưng nó có hại cho một số ít chưa hiểu gì về Pháp Môn Tu Thiền, nên chi Công Phu say đắm nơi Thiền, sự huân tập nhiếp thu Nguyên Tinh quá nhiều mà trí tuệ kém, tư tưởng phát khởi lòng tham muốn mau trở thành PHẬT, THÁNH, TIÊN, họ chỉ theo quan niệm tu thiền thành Phật. Còn đứng về tinh thần chất nguyên tinh để nói: Nguyên Tinh là một động cơ thúc đẩy theo vạn tư tưởng nơi con người đã mong muốn, chớ nó không thể lái con người theo sự chuyên chính Nhất Tôn, nên chi Đạo Phật nói: “NÓ NGHĨ THẾ NÀO, NGUYÊN TINH LIỀN ĐƯA NÓ ĐẾN NƠI ẤY.”
Nguyên Tinh tùy thuận theo ý nghĩ Hòa Hợp Hóa Sanh, nếu nó hòa hợp nơi chất chi liền hóa sanh trong chất ấy, như nó vào máu liền hòa hợp trong chất máu hóa sanh, nó vào xương hay tế bào, nó liền hòa hợp xương cùng tế bào hóa sanh. Khi con người cần dùng nơi tư tưởng nó vào tư tưởng hợp tinh thần hóa sanh. Do lẽ ấy Triết Học Zen bên Nhật Bản có một phái dụng nơi Nguyên Tinh bồi dưỡng nuôi thân, có rất nhiều Tông Phái họ dùng quan niệm để tu luyện thảy đều do chất Nguyên Tinh cung cấp.
Sự lầm tưởng nơi con người, tự mình tu luyện, tu thân, tu tinh thần, tu hiểu biết phá mê chấp, tu trong Vạn Hạnh cốt được tỏ thông, hoặc giả thực hành cốt chứng ngộ. Đứng tư thế tự mình cấu tạo, tự mình hóa giải, tự mình tự giác thảy đều là một phương tiện đi đến hoàn toàn thực chất Nguyên Tinh sống động Vũ Trụ với con người Đồng Thể, cho nên Đạo Phật bảo hãy nương theo VÔ NGÃ, lần tiến đến Đại Ngã Viên Giác liền TỰ THỂ hóa sanh, khi Tự Thể hóa sanh mới thật biết mình Đại Diện Vũ Trụ, đại diện Vạn Pháp Ứng Thân Nhất Thể.
Nơi lầm tưởng của con người chẳng có vị nào tránh khỏi, thời xưa đức Bổn Sư, lúc đang còn là vị Thái Tử Tất Đạt Đa vẫn theo quan niệm giải quyết SANH, TỬ, BỆNH, LÃO, KHỔ, Ngài theo phái Trần Kiều Như tu khổ hạnh chưa tìm đặng nguyên lý tinh thần thiếu thốn. Sau đến cội Bồ Đề tịnh dưỡng tinh thần bồi dưỡng hiện vật như thường, thân tâm dung hòa mới đoạt Vô Thượng Chánh Giác. Ngài tự nói: “Lạ thật! Lạ Thật! Chúng Sanh nó đầy đủ bổn tánh, đầy đủ thể chất, đầy đủ quán xuyến, nó không thiếu sót những gì nơi chư Phật, nó vốn có như nhau. Duy chỉ có Mê Lầm chưa tỏ ngộ bị làm chúng sanh, nếu nó Giác Ngộ vẫn thành Phật.”
Câu nói trên của Thái Tử, bằng chứng Nguyên Tinh dung khắp, nuôi dưỡng Vũ Trụ với con người Bình Đẳng, con người có đầy đủ Tánh Chất, đầy đủ Lý Trí khả năng, thực hành thoát khỏi Vũ Trụ. Nhưng con người nhận sai mục tiêu, nhận sai mục đích chính yếu, nên chi có sự bê trễ thành thử ưa thích những điều gì không làm mà đặng, không thực hành mà đến, vì nó như thế nên đứng yên một chỗ không hơn kém đối với con người hay con người ta cũng thế.
Con người có nhiều lúc đứng trước sự việc khó nghĩ, đâm phân vân từ những bậc có tu theo Đạo Phật hoặc chưa tu cũng thế, họ tự hỏi lấy: “CÁI NGỦ CÓ PHẢI NHƯ CÁI CHẾT CHĂNG?” Cái ngủ với cái chết hai cái khác biệt nhau, nói ra con người làm sao nhận tin được, vì sao? Vì con người đã từng ngủ, chớ chưa ai đã từng chết để nghe lời nói thật. Nói đến cái chết, có kẻ đã bị chết rồi sống mới nghe đặng lời kể là thật.
Còn đối với cái ngủ là một lối an dưỡng Thân cùng dưỡng Trí. Ban ngày con người từ nơi Linh Hồn mang phải xác thịt mệt nhọc vô cùng, còn phải làm việc lo lắng hằng ngày. Tối đến giấc ngủ để an dưỡng thân, an dưỡng trí làm cho thân đỡ mệt, trí khỏi lo, con người có sức khỏe thì cái ngủ nó rất ngon, bằng yếu về thân hoặc mệt về trí, đêm nằm thường thấy chiêm bao. Chiêm bao là một cái trí Giả Tưởng hoặc mệt trí hay trí bị giao động trước bối cảnh, có trường hợp sức đang khỏe nhưng khí trời bất thường thay đổi vẫn bị thấy chiêm bao. Chiêm bao thuộc về Giả Tưởng, thuộc về Tâm Ý, thuộc về sức khỏe, thuộc về giao động, còn về thật hay không thật do sự tin hay lòng tin của con người để báo điềm trước, đó thuộc về Thần Thức Giả Tưởng kết hợp một phần nào nơi Tiểu Ngã để thấy.
Nói đến CÁI CHẾT, nghe qua ai cũng sợ sệt, vì đối với con người SỐNG lo âu, CHẾT sợ sệt. Thật ra con người đã gặp cái chết mới nhận định được cái chết rất nhẹ nhàng, thoải mái, không khác nào để một gánh nặng về Thân Thể con người trên bốn chục ký lô. Cái Chết thoát sanh, nó tùy theo Cảnh Giới, tùy theo thân mạng thay đổi TRÍ NHỚ.
Khi con người đang bệnh, đến lúc chết liền thoát khỏi thân mạng đau đớn trên giường bệnh, nên nó nhận thấy nhẹ nhàng là do chỗ đó. Chết xuống CÕI ÂM hay đến Cảnh Giới nào, chính nó cũng quên hẳn rằng nó từ Nhân Gian đến nơi nầy hay nơi nọ, nó vẫn tưởng nó ở Cõi Âm hoặc Cảnh Giới nó đang ở, nó tựa như Du Khách chớ chưa bao giờ nó nghĩ Bà Con hay nhà cửa chi cả, nó cứ đi hà rông mãi, đến khi nào đó đương nhiên nó bị một màng bao phủ chụp vào người nó, nó bất tỉnh đó là nó được vào Thai, đến kỳ nó bị sanh ra như thường lệ. Đối với ở Thế Gian nầy cũng như thế, ở thế gian nếu có người nào ở Cõi Thiên hay Cõi Âm hoặc Cõi Thần, đến lúc Mãn Phần về cõi Nhân, họ cũng ngỡ rằng mình ở Nhân Thế, họ vẫn đi rông đến khi nhập Thai bị sanh, họ thảy đều quên bản thân của họ ở đâu đến đây, đó chính là một cuộc thay đổi từng nơi nầy đến cảnh nọ để mà Sanh Tử.
Nói đến Cái Chết ĐƯỢC SANH hay BỊ SANH vào các CÕI hay CẢNH GIỚI thấp, cao, sướng, khổ không căn cứ lúc LÂM CHUNG (chết) êm đẹp hay trầm trệ, mê mang hoặc tỉnh táo trong lúc đau bệnh mà Chết. Chỉ căn cứ đương thời con người đang lúc Sống từ nơi Hành Sự đến Ngôn Từ, Ngôn Hạnh gây tạo phước điền hay Tàn Phá ác nghiệt, căn cứ như thế mới đúng đắn họ chết sẽ đi về đâu.
Con người chết được về Cảnh Giới sung sướng hoặc khổ đau nó rất thực tế, nó không phải thần thoại hoặc giả dối đặng, nó không khác nào với bậc Dược Sĩ pha các chất chế tạo từng món thuốc, chất gì pha với chất chi được gọi là Môn Thuốc để trị bệnh nhất định mỗi bệnh. Khi con người chết Được Sanh hay Chịu Sanh nó cũng tùy theo Phẩm Dược, tùy nơi chất phẩm đắng cay ngọt bùi nơi nó, lúc còn sống tạo thành mà vào CÕI hay các CẢNH GIỚI đồng hợp nơi nó, nó liền Hóa Sanh nơi cõi ấy hoặc cảnh giới ấy sướng khổ tùy theo Được Sanh hay Chịu Sanh cũng thế.
Theo thói thường con người, lúc lâm bệnh nó có hai trường hợp đem con người Thoát Sanh, trường hợp thứ nhất con người bị đau NỘI THƯƠNG thuộc về đau Thân Mạng, trường hợp thứ hai đau về THƯƠNG HÀN cảm nặng thuộc về Trí Giác. Hai trường hợp nầy thường hay bị con người lý đoán về Cái Chết nơi con người. Lúc bị đau về Thương Hàn mê man bất tỉnh, miệng nói lẩm bẩm, sau khi Chết, họ cho là người nầy chết sẽ bị tội chịu sanh khổ sở. Còn có người đau về thân mạng Nội Thương, lúc chết tỉnh táo, nói năng tỏ rõ, họ cho sẽ đặng lên Thiên Đàng hay Cõi Trời. Hai lý đoán như thế không thật thảy đều sai chạy.
Nếu con người tự nhận biết được tỏ rõ, sau khi Chết sẽ về đâu, thời nên biết lúc đang còn sống tạo cho đặng PHƯỚC ĐIỀN, tạo cho đặng Đức Tánh cùng nung đúc tấm lòng Nhân Đạo, chính mình biết thương nơi khổ cực của mọi người, cũng như thương thân mạng mình, chính mình nên đem lời an ủi giúp đỡ cho những người chung quanh mình đã từng bị Khổ, làm cho họ đặng an vui ví như mình an vui. Con người cứ làm như thế thời con người ấy sau khi tuổi già có lâm vào tình trạng mắc bệnh THẦN KINH, lúc lâm chung cũng thoát sanh lên Cõi Thần hay Cõi Thiên. Tâm trí họ liền sáng suốt, còn chứng Thần Kinh kia nó liền trả lại cho con bệnh Thần Kinh, chớ không vướng mắc gì đến Chánh Báo thân mạng, đó chính là lời chân thật vậy.
Con người đang ở nơi hiện tại rất cần xây dựng đứng thứ nhất. Bậc đã tạo đặng cơ bản bản năng làm con người chân chất cao đẹp, dù cho sau nầy Chết bằng cách gì đi nữa cũng đặng chánh báo khang trang chớ không bao giờ sa Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh đâu mà sợ, làm con người hiếm người biết xét lại công việc mình đã làm thất đức, hiếm bậc gặp trường hợp họ gây ra tạo ác nghiệt đến nơi mình mà chính mình tha thứ cho họ. Cũng như đức Chúa Jésus, phe phái đánh đập Ngài, bắt Ngài đóng đinh nơi cây Thánh Giá. Ngài không hờn giận kẻ đối phương, Ngài nhìn giọt máu rơi trong lúc lâm nạn, Ngài còn thốt ra lời: “GIỌT MÁU CỨU THẾ” Ngài thoát sanh bằng lối khổ đau, Ngài được CHẾT lên Thiên Đàng có phải là Đức Tánh lòng Nhân Đạo mà Ngài đặng Chánh Báo chăng?
Từ đức Chúa Jésus đến các bậc Thánh Tăng mong ngày chính mình ĐƯỢC CHẾT, những bậc nầy coi sự chết là một cuộc hóa sanh ưu tú nhất. Nên chi có một vị Tăng Già đang đi ngang qua khu rừng dưới chân núi, bỗng nhiên gặp con Cọp từ xa đi lại, hai bên đụng đầu nhau, vị Tăng an nhiên không sợ cái chết, mong mình được chết, làm cho chú Cọp kính nể cúi đầu tránh vị Tăng Già làm cho Thế Giới ngạc nhiên, như thế có phải thần thoại không? Đối với con người biết rõ trong tay mình có Đạo Đức thời đứng trước mọi sự việc gớm ghê họ thảy đều an nhiên, trông mọi sự việc xảy đến nơi, nhưng mọi việc đó không bao giờ xảy đến.
Những bậc đã từng biết rõ về vấn đề SANH TỬ, nên không bao giờ sợ chết, còn mong cái chết đưa đến cho bậc đã từng tỏ rõ về Sanh Tử. Thuở xưa có hai người bạn thân với nhau, cùng ở chung nhau một ngôi Chùa, đồng nhau một Thầy. Sau khi vị Hòa Thượng mãn phần, hai người cũng đã tỏ rõ đường đi lối về của Sanh Tử, gọi là giải quyết Sanh Tử Luân Hồi, hai vị tuổi mới vào lối bốn mươi chưa phải là tuổi Được Chết, hai vị bằng tìm cách yên thân để chờ viên tịch (chết trọn). Vị thứ nhất nói với vị kia rằng:
“Chú nên ở lại Chùa tạm mượn Chuông Mõ chỉ dạy các chú Tiểu sống cho qua ngày, còn tôi đi giao du khắp đó đây giúp đời, nếu hai ta cùng đi thì bỏ ngôi Chùa không ai coi ngó.” Bàn định xong Sư Trưởng ra đi, trong vòng mười lăm năm về sau. Một hôm Sư Trưởng đi ngang qua Chùa trong buổi chiều nghe tiếng mõ trong Chùa vang dội, nhìn thấy chú Tiểu đang quét sân, sư trưởng gọi chú tiểu đến hỏi:
“Nầy chú Tiểu, có thằng Tâm trong đó không?”
Chú Tiểu nhìn Sư Trưởng sợ hãi, chắp tay thưa: “Dạ có.”
Sư Trưởng vừa cười vừa nói:
“Cháu nói lại với thằng Tâm Ta giảm thọ cho nó mười năm, nó được chết sớm.”
Nói xong bỏ đi.
Chú Tiểu vào Chùa, cũng vừa lúc Hòa Thượng đã công phu xong. Chú Tiểu bái thưa:
“Bạch Hòa Thượng, con ra ngoài ngõ trước cổng Chùa đang quét sân, bỗng nhiên gặp một vị Sư, trán rộng, thân mình cao, tay cầm chiếc ô, hỏi con rằng:”
Vừa nói đến đây Hòa Thượng mừng rỡ hỏi liên tiếp: “Thế nào, thế nào, vị ấy đã nói gì với con?”
Làm cho chú Tiểu lính quýnh, không dám thưa vội, phần Hòa Thượng nóng lòng mong chú Tiểu đáp, chú Tiểu bạch:
“Kính thưa Hòa Thượng, con nói ra con sợ lỗi tăng thượng đối với Ngài, xin Ngài tha lỗi cho con mới dám nói?”
Hòa Thượng gật đầu, chú Tiểu thưa:
“Vị Sư hỏi có thằng Tâm ở trong Chùa không?”
Con đáp: “Dạ có.”
Vị Sư nói tiếp:
“Cháu, ta giảm thọ cho nó mười năm, mong nó được chết sớm.”
Vị Hòa Thượng nghe xong vỗ tay vui mừng, chế một chung trà thưởng thức lời nói của vị anh cả thương em đang mong đợi Được Chết.
Sau đến thời Lục Tổ Huệ Năng, lúc Ngài sắp nhập Niết Bàn, Tứ Chúng u buồn than thở, Ngài nói:
“Các ông chớ nên buồn phiền, đáng lẽ các ông nên vui mừng vì Ta đã biết đường đi lối về SANH TỬ, có chi mà phải buồn.”
Thiền Sư vừa nói đến đây, số người đồng thưa:
“Kính thưa Thiền Sư, con đường Tử, khi bậc đã biết nơi hiện tại đang lúc còn sống, tạo Đức Độ đến Vị Lai đặng thoát sanh vào nơi cao quí, vào chốn an nhàn Chánh Báo. Chúng tôi mong Thiền Sư giải cho chúng tôi được nghe nơi thoát sanh của con người từ Phàm Phu đến Thánh Tăng có khác nhau như thế nào? Bọn Ác Nghiệt Bị Sanh nó ra sao?”
Thưa gởi xong yên lặng chờ nghe. Thiền Sư nói:
“Nói đến sự ác nghiệt bị sanh chịu cực hình thời nó vô kể. Nhưng các ông cũng nên biết, nơi thường dân tục tử, dù ác nghiệt đến đâu chăng cũng là một tội bé nhỏ, riêng mình, mình chịu chỉ có một kiếp, chỉ trừ trường hợp làm cho những bậc tu hành tạo phước điền đoạn duyên mới đáng kể. Đứng vào hàng Vua Chúa, Quan Quyền, một khi đã ác nghiệt Phê Chỉ làm cho hàng triệu con người phải Lầm Than đói khổ, làm cho vạn vạn than phiền mới nên tội A Tỳ Địa Ngục, ví như Tần Thủy Hoàng xây Vạn Lý, Vua Thành Thang cất Bá Lạc Đài, bọn Hắc Nô bắt con người Mò Trai Lấy Ngọc, vì lẽ ấy mà bậc Minh Vương, bậc Vĩ Đại Cứu Tinh mỗi lần Phê Chỉ ban hành thảy đều xem xét kỹ càng ích nước lợi dân mới dám Chuẩn Ký.
Khi một vị Vua Chúa ban hành điều ác nghiệt sau lúc lâm chung đang nằm trong Cung Vàng Điện Ngọc, các quan hầu cận đầy đủ chăng, Tiềm Thức (hồn) vẫn nghe la ó hét hò, không khác nào toàn dân hãm thành đổ bộ, khiến cho Tiềm Thức nhà Vua sợ hãi, vội vàng ngồi dạy, bị toàn dân tay cầm gươm đao đến đâm chém, khi bấy giờ nhà Vua đâm đầu chạy, bọn người đuổi theo hạch tội, xiềng xích nhà Vua, mang về bỏ vào Ngục Tối, trường hợp Ta nói trên thường nó như thế, nó còn hơn thế nữa kể không bao giờ hết những tội mà nhà Vua hoặc quan tham hà lạm, hoặc quan lừa dối dân để cướp của.
Còn đối với con người Hiền Lành hay Phước Đức hoặc Tánh Tình tốt thường giúp đỡ mọi người Quảng Đại Quang Minh, nhưng họ chưa có mục đích nào để đến nơi Thoát Sanh, họ đứng ra ngoài Tôn Giáo hết thảy. Khi Lâm Chung, nói đến trang thái con người lúc Lâm Chung duy chỉ dưới mắt Thiền Sư mới nhìn thấy, ngoài ra con người thường chưa thấy được. Lâm Chung nó tùy theo giai cấp, phước đức, giai đoạn duyên lành mà nó xuất hồn thoát sanh.
Con người trước ngày lâm chung, đương nhiên họ nhận thấy buồn hoặc nhận thấy lờ cờ vô căn cứ, đôi lúc có người tự thán với bà con giòng họ. Đến ngày lâm bệnh, nếu họ may mắn gặp vị Thiền Sư đã từng xuất định cầu cứu, thời vị Thiền Sư nầy không phải chữa bệnh cho họ trên giường bệnh mà vị nầy xuất định đi các cõi xem TIỀM THỨC (Hồn) nó đã có phần nào nằm ở Cõi nào hợp với bệnh nhân, liền tháo gỡ trả về dương thế tự nhiên lành bệnh qua cái chết. Nói đến con người chết nó không có số mạng chi cả, nó chỉ biết cách chữa trị, biết lối bồi dưỡng hay chưa biết nên nó phải chết mà thôi. Con người sắp gặp phải bệnh nặng nó vẫn có triệu chứng nầy.
Khi con người hấp hối, thì Tiềm Thức (Hồn Khôn) đã có phần nào xuống hoặc lên ở một Cõi nào rồi, còn phần xác đang nằm trên giường bệnh hấp hối, Tìm Thức nó lần lượt xuất, lúc trong thân con người xuất, nó không khác nào hơi khói trong thân bốc lên cứ tuần tự bốc mãi đến khi hết tất cả đầy đủ Tiềm Thức thì Vía Dại gọi là cặn bã nghiệp thức nó nhập xuống dưới chân giường, con người liền tắt hơi, cặn bã nghiệp thức họ thường gọi là: HỒN THƯ. Đối với con người lúc sanh tiền đang còn sống, nó có KHÔN và DẠI nên mới có Hồn Khôn, Vía Dại, cái Vía Dại nầy nó rất ảnh hưởng đối với con người, thoát sanh mau chậm hay còn ái nịch luyến tiếc bà con giòng họ, của cải nhiều ít đều do nó lôi cuốn cả. Khi Tiềm Thức bốc lên hư không, Tiềm Thức là một chất Thanh, còn Hồn Thư gọi là Vía Dại, là chất THÔ, Chất Thanh đang còn tập nhiễm nhiều ít chất Thô nên chi Tiềm Thức đã bốc lên hư không, nhưng vì tập nhiễm thành thử chưa dứt khoát về Cõi đã sẵn mà thoát sanh hoàn mỹ. Nếu gặp đặng vị Thiền Sư, vị nầy chỉ nhìn vào Xác Chết đương nhiên hai bên không còn vướng vấp nhau nữa. Bằng gặp đặng vị Đại Đức lấy Công Đức nơi mình chú nguyện tự nhiên cũng đặng như trên. Nên nhớ khi trong nhà Tang Chủ có người Chết không còn có Âm Khí buồn lạnh, đó là cuộc thoát sanh hoàn mỹ, nếu còn Âm Khí u buồn thì vẫn còn vong linh Tiềm Thức lai vãng, phải chú nguyện đặng thoát sanh.
Các ông cũng nên biết Tiềm Thức thanh chất nó có đặc tánh di chuyển đến nơi Chánh Báo hoặc Chịu Báo để kết nạp với Tiểu Ngã, nơi Cõi hoặc Cảnh Giới đó, còn Hồn Thư Vía Dại nó nằm yên với Tiểu Ngã đã để lại kết nạp an trụ đứng yên. Cũng như con người đang ở Cõi Nhân đặng lên Cõi Trời thì Tiềm Thức lần lượt di chuyển lên Cõi Trời được sanh lên Cõi Trời, còn Hồn Thư Vía Dại, nó ở lại Cõi Nhân kết nạp với Tiểu Ngã Nhân Pháp mà an trú. Chờ chừng nào bậc kia đoạt Vô Thượng Đẳng Chánh Giác, gọi là ĐẠI NGÃ BÁT ĐẠI thì chung gồm bá thiên vạn ức Tiểu Ngã thảy đặng trở về kết chung với Bát Đại, gọi là hoàn mỹ, hoặc Chân Thiện Mỹ Hoàn Lai cũng thế.
Đối với con người tốt hiền lành, đạo đức đồng với Quảng Đại Quang Minh của mỗi người, dù cho di chuyển bằng cách nào đi nữa, đến bốn chín (49) ngày vẫn được thoát sanh, trừ trường hợp ái nịch quá trớn vong linh lai vãng quá nhiều thì bị sanh lộn kiếp ở trong gia đình, như bà Nội thương cháu nhiều không nỡ thoát sanh, lưu trú vãng lai thời nó lại đầu thai làm em của cháu Nội hay làm con của con mình trường hợp nầy rất nhiều, do ái nịch bị sanh lộn kiếp.
Đứng về các bậc tín ngưỡng hoặc cuồng tín hay bậc tu hành về Tôn Giáo không phân biệt, miễn sao con người tự tín nơi Tôn Giáo mình, tự tín ngưỡng vào Thần Quyền mình, tự cuồng tín nơi tâm khảm mình, biết làm lành, biết xây dựng tánh kiên nhẫn, ăn ở thiện căn đều đặng PHƯỚC BÁO NHÂN THIÊN khỏi sa vào Ba Đường Ác như NGẠ QUỶ GIỚI, SÚC SANH GIỚI, ĐỊA NGỤC MÔN. Nhưng căn bản ít sát sanh, vì sát sanh thường hay bị Loài Ma đòi mạng chúng.
Bằng con người cúng tế, sát hại Trâu, Bò, Gà, Vịt, Dê Cừu cầu lấy phước báo khó đặng kết quả thoát sanh, lại thêm vào một đường dây nghiệt quả, đây là lời nói thật, vì sao?
Vì ta đã từng nhập vào Chánh Định, đã từng gặp các chư Thần ở Cõi Trời hay cứu giúp Nhân Gian, từ Thần Hoàng đến Thần Miếu qua Thần Thánh lại Thánh Quân cùng Thánh Mẫu thảy đều phàn nàn, phiền trách với Ta rằng:
“Kính thưa Thiền Sư, chúng tôi toàn Chánh Trực Quang Minh Thần, chúng tôi không thiếu chi món ẨM THỰC hương vị ngạt ngào cao quý, thanh thoát thơm tho. Chúng tôi thấy dương gian gây tạo ác nghiệp, nên có ác căn tai nạn xảy đến cho họ liên miên. Họ lại có lòng Thờ Phụng cung kính van cầu chúng tôi, chúng tôi động lòng ra tay cứu độ cho họ thoát khỏi tai ách.
Mỗi lần chúng tôi giáng trần, đến nơi Đình Miễu thì hỡi ơi! Trước mặt chúng tôi họ đặt rất nhiều xác chết, thiêu đốt, luộc quay. Chúng tôi làm sao nói đặng? Đứng nơi lòng thành hòa lẫn ác nghiệp, buộc tình chúng tôi cứu nạn với lòng thành. Con người họ vì tục lệ, họ vì ưa thích nên họ tưởng chúng tôi ưa thích gà, vịt, heo quay, bò tái, rượu nếp, canh xôi, thật ra chẳng biết nói sao hơn, việc đó chưa phải Tín Chủ mà bọn Tế Lễ tham ăn dục lợi thu góp, khiến con người phải làm như thế. Chúng tôi mong Thiền Sư đương thời hạ lai nầy, nói lên lời nói giúp chúng tôi khỏi phải mang tiếng tế thần bằng lối sát sanh như vậy."
Thưa gởi xong liền chầu trời (Đêm 30 tháng 9 Âm Lịch 1965).
Các ông cũng nên biết: Khi bậc đã có phước điền, có một đức tin làm lành thời có nơi chốn chứng minh, có vị Thánh đỡ đầu. Lúc lâm chung, TIỀM THỨC bay bỗng lên hư không, miệng liền niệm danh hiệu Tôn Giáo đức tin của mình như: Kính lạy Chúa, hay Kính Mong Thần hoặc Kính gặp Thánh tùy tùy mỗi con người tin mà phát hiện, liền khi đó có tia sáng HỒNG QUANG về cõi Thần, có tia sáng THANH QUANG về cõi Trời làm dân, có tia sáng BẠCH QUANG về cõi Trời làm Quan, có tia sáng HUỲNH QUANG về Tịnh Độ. Có lúc con người thật tốt nhưng chưa đặng đức tin vững, vừa lên đến hư không, vui mừng đi dạo khắp Vũ Trụ, nhưng không bao giờ thấy đặng các cõi, các cảnh giới, đến sau tâm thần bớt khoan khoái lờ đờ, khi tỉnh lúc mơ, nhớ đâu gặp đó, liền đến Thần Hoàng Miếu Võ mà ở liền trở thành Thần Núi Nhân Gian, hoặc gặp phải tia sáng đủ màu liền được về nhân thế mà thai sanh con nhà giàu có để tu hành. Trái lại, có bậc thật tốt nhưng quá chơi bời, đình trà tửu điếm. Lúc sanh tiền bạn bè thân hữu nhiều nơi, thường vui chung cùng chúng bạn. Đến giai đoạn trên dạo chơi khắp nơi, liền đến chốn ca xướng ăn chơi nhảy múa, liền nhập bọn ở nơi đó say mê lâu ngày vẫn bị tấm màn bao phủ thụ thai sanh vào Súc Sanh Giới, nếu lối chơi thanh bai quý phái Công Đức cao dày thanh thoát thì đặng thụ thai vào cõi Trời Lục Dục Thiên an hưởng.
Nói đến Chánh Báo, các bậc tu hành Hạnh Nguyện từ nơi Chứng Tri Đắc Pháp CHÂN KHÔNG chưa tỏ rõ về nơi Sanh Tử, một là cứ thọ chấp Chân Không chạy theo KIẾN DỤC, Tăng Thượng tự xưng Thánh Phật thì sau khi lâm chung bị tội VÔ GIÁN ĐỊA NGỤC, vì sao? Vì Chân Không nó có rất nhiều thứ lớp theo nhận định, tùy Công Năng sở chứng của mỗi bậc, từ hàng Phàm Phu đến Thánh Tăng lớp lớp khó giải hết. Bậc thật tu, thật chứng mới tỏ rõ Công Năng đối với các bậc tu rất đáng kể. Bậc sở đắc Chân Không biết giá trị nơi Chân Không là quét dọn GIẢ TƯỞNG về với chính mình là TIỂU NGÃ sáng soi ngàn phương để giác ngộ, đó gọi là: BỒ TÁT SOI KHẮP NGÀN PHƯƠNG.
Kẻ Ngoại Giáo, người tham vọng khi xem những bộ kinh của Thiền Sư như: KINH LIỄU NGỘ ĐỐN MÔN, học thuộc hiểu mới sơ qua vội chấp KHÔNG, cho tất cả Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới đều KHÔNG, cho vạn pháp di chuyển Chánh Báo Thọ Báo thảy đều KHÔNG, cho tất cả chư Phật cùng Bồ Tát Nguyện, Bồ Tát Hạnh đều KHÔNG, cho tất cả sự tu hành, diễn tiến Phật Quốc Tịnh Độ đến Bát Đại Niết Bàn đều KHÔNG, do nơi không trụ không mà theo Kiến Dục, ngôn ngữ TÀ KIẾN, tự xưng Như Lai, tự xưng Phật làm cho một số con người phải lầm lạc, làm cho một số con người Ngạo Mạn, làm cho một số con người Ngoại Giáo sa vào Vô Gián.
Nào họ có biết con người đối với Vũ Trụ, con người phải hiểu biết Vũ Trụ từng ly, từng tí, từng lớp, từng lang, từng nơi Tu Chứng của các vị Bồ Tát, từng sự lầm lạc của Nhân Sanh. Tiên Đạo, Thần Đạo Sanh cùng với Tánh Chất Hóa Sanh nơi Vũ Trụ, nơi Như Lai Tạng và Tánh Chất Hóa Chất của hàng Tiên Thần đến Nhân Loại, tất cả con người phải có đầy đủ Khả Năng kiến tạo, Công Năng vượt qua các trở ngại, vượt qua những gì chưa hiểu biết đặng biết, những gì chưa Ngộ đặng Ngộ, những gì chưa Nhập đặng Nhập, đó chính lẽ dĩ nhiên nó phải như thế. Từ khi con người Hiểu thì nó Hiểu chớ chưa phải Biết, đến lúc Biết thì Biết chớ chưa phải Thật Biết, từ lời Khai Thị để Hiểu đặng Biết chớ chưa phải Ngộ Nhập.
Thứ nhất giữa thời Hạ Lai lạc pháp nầy, bọn chúng làm cho Đạo Phật bị đánh giá do bởi chúng đem Đạo Phật theo nơi hiểu biết quá tầm thường của chúng làm cho con người ngỡ Đạo Phật TIÊU CỰC, ngỡ Đạo Phật MÊ TÍN, ngỡ Đạo Phật CHÁNH TRỊ, có phải chúng hiểu biết thấp kém, lòng tham nơi chúng đầy GIẢ TƯỞNG nên mới tranh giành nhỏ nhen hư vọng phải sa vào nơi Chánh Trị chăng? Đến ngày lâm chung hậu quả của Thể Chất Tánh Chất nơi nó như thế nào nó phải Bị Sanh vào nơi chúng tạo mà sa đọa vào ĐỊA NGỤC VÔ GIÁN.
TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN