–“PHẬT ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh vũ trụ. BỒ TÁT có quyền chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng.″

7. THUYẾT MINH ỨNG HIỆN

16 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 10214)
7. THUYẾT MINH ỨNG HIỆN
Thuyết Minh Ứng Hiện, chính một thuyết minh đầy đủ Công Đức Như Lai, Có Ứng liền HIỆN thân BỒ TÁT PHẬT hay Bồ Tát Ứng Thân liền sau khi đặng lời Khai Thị của bậc Chánh Giác.

Sự Ứng Hiện là sự chờ Khai Thị Chứng Minh, ngoài ra không thể dùng vọng tưởng, thường tưởng nào mà đặng sự Ứng Hiện.

Khi từ nơi tư thế Chúng Sanh Giới phải sống, bị sống không ngoài Chúng sanh Tánh, Chúng sanh Tánh chia ra bá thiên vạn loại, từ nơi Thượng Sanh đến Hạ Giới. Từ chốn Tiên Thần Thánh Hóa cho đến nhân loài trong Sáu Đường đến Địa Ngục. Mỗi Cõi, mỗi Cảnh Giới thảy đều bị trị trong chế thế qui định. Do đó nên mỗi nơi đều có tập quán, thường quán, tập nhiễm, thường nhiễm, không ngoài THANH THÔ TẾ NHỊ mà bị bổ sung sanh tử trong Ba Cõi Sáu Đường, chỉ vì Chúng Sanh Tánh Ứng Hiện có khả năng mức độ như thế mà thôi.

Lúc Chúng Sanh Giới ấy Phát Bồ Đề Tâm tu tập, phải dứt khoát GIẢI TÂM bị trị nơi Chúng Sanh Tánh ấy mà nung đúc, Cải hóa Chúng sanh Tánh trở thành Tiên Thần Thánh Hóa Tánh, để thừa hưởng Ứng Hiện nơi Tiên Thần Thánh Hóa. Sau khi đầy đũ Công Đức trọng lượng chất lượng, phẩm lượng, gặp đặng Vị Đại Tiên, Đại Thiên, Đại Thần Thánh Hóa khai thị hộp hóa liền Ứng Hiện Tiên Thần Thánh Hóa. Bằng gặp đặng Phật thời vẫn chưa Ứng Hiện đặng Bồ Tát Hóa Thân, vì sao? Vì đang tập nhiễm SẮC THÂN nên phải trải qua tu hành Bát Nhã Trí cốt Thâm Nhập Pháp Giới Thọ Ngã Bị Giác, do đó nên chưa Ứng Hiện.

Bằng Bậc sẵn có Căn Tánh của Thiên hoặc Tiên Thần Thánh Hóa, bị sanh ứng hiện trong Cõi Đời, phải chịu sống theo Sáu Đường như tất cả Nhân Loài. Lúc gặp đặng Phật. Những bậc nầy tuy thân mạng con người, dù cho giàu sang hay cực khổ vẫn có tư cách đạo mạo khang trang, cử chỉ thanh thoát đẹp.

Nhưng có một nỗi, nặng về Hình Sắc quan niệm nơi Thân Phật thị Hiện, hơn là tu hành Tự tánh, chiêm ngưỡng lễ bái hơn là lãnh giáo của Chư Tăng. Do nơi Thiên Pháp tập nhiễm thọ chấp, tu như thế khó thành tựu chứng tri Bồ Tát Hạnh, được gọi là Nhị thừa tu chứng.

Lại có bậc, có sẵn Căn Tánh của Thiên hoặc Tiên Thần Thánh Hóa, bị sanh ứng hiện giữa Cõi Đời như trên đã nói: Nếu gặp đặng Phật. Nhãn Quang phong phú, nhìn đặng thể cách bình dị của Như Lai thị hiện, sinh lòng ái kính. Khi nghe đặng lời khai thị, toàn thân Long mạch của bậc ấy viên thông, tất cả Sơn Hà Đại Địa rung chuyển, liền lễ bái thọ trì xưng tán, chưa bao giờ nghe, nay đặng nghe lời khai thị, chưa bao giờ thấy nay đặng thấy chơn tướng trực giác, liền đặng Giải Tâm Sắc Tướng về Như Tướng, tu hạnh Bồ Tát Nguyện. Những bậc nầy thường đứng về Nhân Thiên Hạnh trong hàng Trưởng Giả Chúng tu tập.

Đối với Phật Thị Hiện tùy nơi Thời Căn của Chúng Sanh mà Thị Hiện. Khi gặp Thời Căn nơi Chúng Sanh đầy đủ sung túc lại bị chìm đắm nơi Tướng Dục Hư Vọng, tưởng vọng xa hoa Lọng Phướng. Phật bảo phải Xuất Gia tu tập Thiên Thừa Hạnh, cốt xuất ly Danh Giả Tướng, áp dụng bằng CHỮ KHÔNG, lối nầy điều ngự Dục Vọng, khắc phục Tham Vọng trở về Như Nhiên trực giác. Nếu dụng lối CÓ chẳng xuất ly không dứt ái thời tất cả chẳng lãnh hội đặng phải lâm nơi Dục Tướng Danh Giả khó mà Tri Kiến Giải Thoát.

Đến Thời Căn Chúng Sanh đói khổ, dùng nơi năng lực khai thác mưu sanh trong hiện vật để sinh sống, ngành trí hóa văn minh thực chất. Chẳng thể nào Dụng Lối Không hướng dẫn trên con đường Tri Kiến, nên chi Phật Thị Hiện phải ĐỒNG HÓA chúng sanh Dụng Lối Có để Hóa Độ. Khi đã Dụng Lối Có thì có trăm phương vạn lối diễn hành. Tâm không nhiễm trước giác hoàn Thể Chân.

Phật ra đời tùy Căn Cơ, căn tánh khai thị lần đưa cho Chúng Sanh Tánh biết Hướng Thượng, mở mang Tâm Thức trở thành Bồ Tát Tánh. Bồ Tát Tánh có đồng Thể Chất bao dung giúp đỡ từng lớp chúng sanh không quái ngại, lấy sự tiến hóa nơi chúng sanh giới về với chính bản thân Bồ tát an vui, Phật Tánh cũng như thế. Phật ra đời không thể nào khai thác CĂN NGHIỆP của chúng sanh, mỗi một khi chúng sanh Thọ Giới bị thọ chấp căn nghiệp kiến tạo thành hình Nhị Thừa tu Chứng hoặc giả thọ Căn Nghiệp Tiên Thần Thánh Hóa, hay Ngạ Quỷ Súc Sanh đến Địa Ngục, Phật đành phải chịu. Chỉ có những bậc tự nơi bản thân của mình, nhất niệm hóa giải lấy mình thoát khỏi căn nghiệp của mình mà thôi, đó là lời chân thật nên có câu: Phật bất hoá độ vô duyên. Bất hoá độ định nghiệp.

Khi gặp Phật chỉ đạo, thì cuộc hướng dẫn rất toàn thiện khéo léo, tùy Thời Căn, tùy căn cơ lại vẫn tùy thuộc nơi căn tánh Bồ Tát mà chỉ dạy. Tuy nhiên nơi hai lối DỤNG: KHÔNG cùng CÓ, nhưng sự tận độ như nhau. Chẳng phải vì KHÔNG mà quán Hư Không chẳng nói năng bày biện. Chẳng phải vì CÓ mà bắt buộc Bồ Tát phải bị đóng trong khuôn pháp giới để tỏ ngộ đâu.

Sự Diệu Dụng không ngoài: HỶ NỘ ÁI Ố đến Thường lạc Ngã Tịnh. Chư Bồ Tát đang tu hành chưa tận giác, chưa tỏ thông căn tánh tu nơi bị biết thường hay Thọ Căn tạo nghiệp, chấp nhận lấy Hỷ thọ ngã chứng từ nơi tu chứng, hay nhận NỘ để đánh đuổi Ma Nghiệp giải nghiệp cho chúng sanh hoặc dùng ÁI để thương mến ái nịch chúng sanh thoát khỏi nơi sanh tử hay dùng Ố để làm nhục thể cứu độ chúng sanh. Từ nơi Thường Lạc Ngã Tịnh, cho đến Hỷ Nộ Ái Ố, nếu lấy đó làm nơi trụ xứ thảy đều vương nơi Căn Nghiệp, đối với Phật vẫn không giải nổi.

HỶ NỘ ÁI Ố THƯỜNG LẠC NGÃ TỊNH là pháp môn Diệu Dụng của Phật. Tùy căn tánh Phật phải Thị Hiện để hướng dẫn Bồ tát thọ chủng tánh, chớ chẳng phải nơi trụ xứ chứng tri của Phật.

- Có bậc tu hành vì bối cảnh chưa qua nổi pháp giới, tâm thức buồn chán. Phật liền dùng HỶ diễn nói Quốc Độ Tịnh Độ, sự trang nghiêm của Chư Phật làm cho Tâm ý hóa giải lướt qua pháp giới an lành.

- Có bậc vì dễ ngươi gần Phật, thường phạm giới sát sanh hay gây gỗ Tứ Chúng. Phật phải dùng NỘ để nói lên, làm cho bậc kia hồi hướng tu hành.

- Có bậc tâm chí lững lơ. Phật phải dùng ÁI dỗ dành, làm nơi nương tựa lần tiến trên bước đường tu tập. Lại có bậc bảo tồn quả vị, chẵng dám vào nơi bất tịnh cứu độ. Phật liền Hiện Thể Ố để cho bậc kia noi gương trên bước đường hạnh nguyện hoàn mỹ.

- Có bậc điên đảo vọng khởi bất an. Phật hướng dẫn THƯỜNG LẠC NGÃ TỊNH cốt cho bậc kia tỏ ngộ nơi thường chân liễu ngộ. Chớ nào phải nơi trụ xứ mà các bậc tu hành phải mang vào nơi Trụ Chứng?

Nơi ỨNG HIỆN của Chư Bồ Tát, Phật rất tường tận vi tế tỏ tường từ lúc khởi duyên. Còn Chư bồ Tát đang tu hành chưa bao giờ nhận chân nguyên nơi phát hiện. Bằng nhận được chỉ trừ ra Thọ Ngã mới nhận mà thôi. Nếu thọ ngã Phật xem như đã thọ nghiệp không thể nào đưa nổi hoặc cứu độ đặng.

Đối với tất cả Chúng Sanh Giới thảy đều có Thiện Căn Vô Thượng. Nhưng gặp phải những bậc gieo duyên chưa toàn thiện. Bậc gieo duyên chưa toàn thiện chưa phải là bậc không có Tâm Chí cứu độ đâu, chỉ vì những bậc ấy tu hành chưa rốt ráo, bị nơi thọ ngã bất ngờ ngỡ mình thành Phật, do đó nên chi hiện nay có hằng hà sa số bậc thầy chỉ đạo sai biệt với hoàn chân của Chư Phật, cho nên mới có bậc gặp Phật chỉ đạo liền thành Phật. Gặp Bồ Tát hướng dẫn đặng thành Bồ Tát, gặp Tiên Thần Thánh Hóa tu luyện đặng thành Tiên Thần Thánh Hóa. Bằng gặp phàm phu hướng dẫn phải chịu thờ cúng yêu ma Cô Cậu, đó là một lẽ thường.

Đứng về phục diện nơi Phật, nhìn đến Chúng Sanh trong Tam Thiên Đại Thiên thế giới Rồng Người. Từ thế gian đến xuất thế gian, thảy đều là:Bồ Tát tự nguyện Thọ Giới cúng dường Như Lai lớp lớp Hành Nguyện mũ áo cân đai cho đến kẻ ăn xin tơi tả đầy đủ hình thức sắc thái nơi thế gian cùng xuất thế gian, nên gọi là Bồ Tát Vạn Hạnh Thọ Giới.

Khi Bồ Tát tự nguyện cúng dường Như Lai Phật, Chư Bồ Tát đồng hiện đồng hóa, trở thành Mật Thể và Như Tướng, vì như thế nên chi Bồ Tát mới hóa thân Sơn Hà Đại Địa chủ yếu mát mẻ Như Lai, Ứng Cúng Chánh biến, có từng lớp lớp, từ cây cỏ đến suối đèo, từ ẩm thực đến hoa quả. Thế Giới gọi là Thiên Tạo.

Đồng thời Chư Bồ Tát hiện hàng hàng lớp lớp Pháp Giới để Thọ Giới đầy đủ trang nghiêm cung thỉnh Như Lai Phật, cúng dường ngôi Tam Bảo tất cả các Bảo Châu:Ngọc Bích, Xa Cừ, Mã Não, San Hô, Hổ Phách cùng Lọng Phướng xe giá, kèn trống tiễn đưa, đón rước Chư Phật mười phương tề tựu đàm luận cùng thảo luận, Bồ Tát chủ yếu chứng tri Công Đức, Bồ Tát tự nguyện, an trú pháp giới cúng dường, từ đời đời kiếp kiếp. Có như thế, hành như thế nên chi Chư Bồ tát thảy đều là Cái Dụng của Như Lai.

Khi bấy giờ Bồ Tát, mong TRI KIẾN PHẬT thì làm như thế nào để Tri Kiến? Bồ Tát phải GIẢI GIỚI. Bồ Tát giải giới, Bồ Tát phải tận độ Chúng Sanh Giới, do đó nên chi Bồ Tát nhìn thấy tất cả thảy đều là vạn pháp ràng buộc chúng sanh chịu giới cực khổ, Bồ Tát nguyện đem thân mạng trí tuệ tay chơn đầu cổ bố thí chúng sanh thoát khỏi pháp giới, làm nơi an lành của Bồ Tát nguyện.

Bồ Tát nguyện ra vào Địa Ngục Giới, lãnh lấy sự khổ đau ngục hình, hoặc giả hứng chịu kẻ kia chửi mắng hành hạ thân mạng, để cho chúng sanh hóa giải nghiệp lậu đặng thoát khỏi ngục hình. Nguyện như thế làm như vậy, Bồ Tát làm nơi an lành của Bồ Tát nguyện.

Lúc Bồ Tát Hành Nguyện đồng với Hạnh Nguyện, Bồ Tát không bao giờ nhàm chán, Bồ Tát say sưa nơi nguyện, vì sao? Vì bản năng thực thể mong đợi Tri Kiến đánh đổi lấy tri kiến. Do đó nên chi Bồ Tát lìa tất cả mà không nhiễm ái, cúng tất cả mà chẳng nhiễm chấp, đưa tất cả mà chẳng nhiễm trần cấu.

Bồ Tát Hành Nguyện, Hạnh Nguyện như thế, vươn mình đánh đổi như vậy. Bồ Tát sở đắc Pháp Giới tận biết đặng Pháp Giới kết nạp trở thành vợ con, chồng vợ, trai gái, nam nữ, phải chịu nơi Pháp giới trăm phương vạn cảnh, sướng khổ do nơi lầm lẫn chìm đắm nặng nhẹ mà thọ nghiệp, thọ chủng, thọ ái, thọ sanh, thọ tử liền sở chứng Vô Sanh.

Khi bấy giờ Bồ Tát lấy đạo tràng làm thú vui tạm trú, lấy mức tiến làm món ăn nơi ở hàng ngày, lấy bao dung rộng rãi xây dựng Tịnh Độ của Bồ Tát. Bồ Tát Hành Thâm Pháp Giới nhiếp độ hóa giải pháp giới. Từ nơi Vinh, Bồ Tát nhìn nhận thoảng qua không lấy đó làm nơi trụ xứ. Từ chỗ Nhục, Bồ Tát vẫn tái tê nhưng chẳng lấy đó oán hờn, Bồ Tát nhất tâm đảnh lễ, tự nguyện tất cả thân mạng đều cúng dường Như Lai, chẳng còn chi nơi Bồ Tát, đặng Pháp Đảnh Như Lai Thọ Ký. Bồ Tát liền sở đắc Tận Giác tất cả pháp giới chưa phải của Bồ Tát liền đặng giải giới, đặng Chư Phật Thọ Ký lãnh lấy ỨNG HIỆN THÂN BỒ TÁT.

Bồ Tát trải qua vạn hạnh, vạn nguyện, Bồ Tát mới nhìn nhận: tất cả Chúng Sanh Giới, từ hàng nhị thừa tu chứng cho đến Tiên Thần Thánh Hóa chỉ hơn nhau nơi THANH và THÔ, chớ nghiệp chủng nơi chúng sanh tánh còn nguyên vẹn .

Do đó nên nào đặng hay, nào có biết, nên chi lấy GIỚI tạo ra GIỚI mà an hưởng. Khi pháp giới ứng hiện trong pháp giới, chúng sanh giới nhìn thấy đều là HOÀN CẢNH ràng buộc, vợ con Trai Gái đều nằm nơi ái nịch, ái dục hình thành. Lúc xuất gia tu tập phải ly thân cắt ái, tránh nơi ô trược, phiền não trược đến chốn an nhàn pháp giới mà an trú xứ sở, trở thành Nhị Thừa Tu Chứng.

Còn những bậc chưa tu hay đã tu, hoặc đã đặng tu vẫn nhất tâm chúng sanh tánh cầu vái an lành, hoàn cảnh may mắn, cầu lấy phước báo Nhân Thiên, để cho đặng sống an hưởng nơi Chúng Sanh Giới, có như thế, làm như vậy, liền có hàng hàng lớp lớp phải thọ giới đời đời tri kiến nơi chiêm ngưỡng lễ bái Phật Đường, Phật thảy đều hiện nơi pháp giới của Chúng Sanh Giới vậy.

NAM MÔ ĐẠI LỰC NHƯ LAI TÔN PHẬT