–“PHẬT ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh vũ trụ. BỒ TÁT có quyền chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng.″

16. PHẨM LƯỢNG ĐỐI VỚI PHẬT ĐẠO

16 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 9747)
16. PHẨM LƯỢNG ĐỐI VỚI PHẬT ĐẠO
Phẩm Lượng là một chỗ nương tựa để mà sống, do đó nên Nơi Sống, Sự Sống, cái sống bấp bênh, khắp hoàn cầu thế giới với con người cho đến Chư Thiên, Chư Tiên cùng các Cõi Thần Thánh thảy đều nương nơi Phẩm Lượng cầu sống, mong có lối sống, nhưng chưa bao giờ đặng sống vĩnh viễn hay sống thoải mái cả.

Không cần phải cầu kỳ, chưa cần nói chi câu chuyện xa lạ, chỉ phanh phui mổ xẽ Phẩm Lượng, thật tỏ rõ, từng Phẩm Lượng nào nó nằm trong vị trí của nó phát huy ra, khi đã thật biết đặng, đương nhiên nó mang đến Sống thoải mái an lành vĩnh viễn mà thôi.

Về Phẩm, thật quá nhiều Phẩm, nó đứng nơi vị trí nào cũng thuộc quyền sở hữu là Phẩm, còn Lượng tùng theo Phẩm, mỗi khi thành hình mới gọi là Phẩm Lượng, từ sự việc lớn nhỏ thảy đều như thế.

Nói đến thân mạng con người:Theo Trí Tuệ nó chịu trọng trách phát huy, tùy con người đó phát huy bao nhiêu cũng đặng, thì Lượng nó lại phân định tần số có trọng lượng trình độ nơi con người đó không sai.

Về mặt Đức Tánh, Đạo Đức hay Hung Cường nó vẫn có Phẩm Lượng, có tần số, tần số nầy nó theo y như trí tuệ cao thấp sâu cạn. Nhưng nó chính yếu hiền lành hay mưu sĩ độc ác nhân từ thì Phẩm nầy Bản Chất của mỗi một con người đó, được gọi là Bản Năng như nhiên trong thân mạng.

Còn về Hạnh Kiểm Tư Cách, Nhân Cách, Thiên Cách, Ngạ Quỷ Cách, Súc Sanh Cách, Địa Ngục Cách, nó lại thuộc về hấp thụ giai cấp, hấp thụ nơi bạn bè, hấp thụ tư thế của xã hội, không bao giờ chung với Phẩm Lượng Trình Độ. Vì sao? Vì Hành Động tư cách cử chỉ cho đến ngôn ngữ thuộc về Phẩm Lượng nhãn quang tập sự nên ảnh hưởng nơi ngoại cảnh hơn là nội tâm, do đó nên mới có câu: CÓ HỌC PHẢI CÓ HẠNH.

Trong ba Phẩm Lượng nầy, với thân thể con người, nó chính là mực thước mang cái sống với con người đáng kể. Những Bậc nào có đủ Ba điều kiện như:TRÍ -ĐỨC -HẠNH KIỂM, Nhân thì đặng làm người Quân Tử. Bằng Thiên thì làm Minh Vương hay Vĩ Nhân trọng đại, phải chăng con đường sống vinh dự chăng?

Bằng có Trình Độ Trí Hóa cao thấp đến Bậc nào chăng, vẫn thiếu Đức Độ giữa mình và người, thì chính đó chưa phải là Con Người, thường gọi là kẻ Phi Nhân. Nếu có Đức mà Thiểu Trí thường vấp cái sống dại dột. Nếu có Đức cùng Trí mà Tư Cách Hạnh Kiểm lệch lạc thì bị Đời chưa ưa chuộng. Phẩm và Lượng sắp xếp Thân Mạng mình vào hàng thiếu tư cách, đời sống cái sống làm sao đoạt đến Chí Nguyện an vui. Do đó mới có nhiều Bậc than phiền nơi Đạo Đức Trình Dộ tạo sao chưa hưởng? Sự phanh phui Phẩm Lượng trong thân thể con người nầy, chính là một tài liệu gây tạo cho con người thường Tự Biết Thân Mạng của mình mà đối xử, đương nhiên vạn sự thảy đều thành công, trăm chỗ, chỗ nào cái sống vẫn an lành cả.

Còn phanh phui về Phẩm Lượng dung dưỡng, bồi dưỡng hoàn cầu thế giới con người, gồm có:Nhu Yếu Phẩm, Sản Phẩm, Thực Phẩm, Dược Phẩm cùng Mỹ Phẩm. Mỗi phẩm như thế con người phải có toàn năng toàn lực mới trưởng thành Lượng, gọi là Trọng Lượng thấp cao, Bằng chưa đủ toàn năng toàn lực thời rất thấp. Khi đã công dụng toàn năng toàn lực thì chỗ sống trong một khối người đó đã phải sống trong Phẩm đoạt đến Lượng làm nơi an vui, khó thoát ra Phẩm Lượng đang thực hiện, đặng có cái sống Tự Sống. Phẩm Lượng nó cực kỳ rộng rãi, từ mỗi một kiếp con người phải thực hiện mỗi một Phẩm vẫn chưa hết đặng, nên chi phải phanh phui từ Phẩm nó có những quan hệ nào, cốt tỏ rõ mạch lạc lối sống thì đến nơi Sống thoải mái mà thôi, không thể nào phân tách từng Phẩm một đặng.

Đời Sống, Kiếp Sống tất cả Thế Giới con người phải phục vụ Nhu Yếu Phẩm, Dược Phẩm Mỹ Phẩm cùng Thực Phẩm làm nơi sinh sống, mỗi một Phẩm đáng kể liên quan cho con người trong kiếp sống. Từ Lý Trí toàn năng theo trình độ phát triển, từ toàn lực thân mạng họ phải đánh đổi lấy món ăn áo mặc cùng các vật dụng để chu toàn cho cái Sống để mà sống, cho nên chỗ sống yên vui nơi họ là lúc Nhu Yếu Phẩm, Sản Phẩm hay Mỹ Phẩm lên cao về trọng lượng, buôn bán lãi nhiều, đem đến cái vui mừng thích thú trong chốc lát rồi yên bặt, chưa có lối nào, ngành nào đáp số sự vui mừng vĩnh viễn đặng.

Đối với thế giới con người, nếu thanh bình bình thản, sống nhờ Phẩm Lượng thấp cao tạm ổn, thì họ tạm yên vui, cuộc sống thanh nhàn chưa có gì đáng kể, vì quả địa cầu rộng, dân số ít đỡ phải lo, nhờ sự cạnh tranh thấp vẫn sống cái sống thanh bình. Đến ngày nay dân số đông, mức sanh sản nhiều, đời sống không bắt buộc họ vẫn bị buộc phải thi hành toàn năng lực, phải khai thác bản năng để cung cấp dân số. Vì dân càng nhiều thời từ Lý đến Sự phải tăng mới đủ ăn và đủ mặc. Đoạn nầy Thế Giới với con người đền dư biết, khỏi phanh phui chi cho lắm.

Trước thời hiện đại ngày nay, đa số trên hoàn cầu con người không chịu nổi đời sống dân số cao, phải cạnh tranh phát sanh nhiều quái đản. Toàn dân thay bộ mặt an vui khác, họ vui khi đặng giàu sang danh giá, họ thích phát hiện nổi danh trên thế giới, họ đứng chiếm vào hàng Vĩ nhân, Siêu nhân, cốt mua lấy an vui nơi danh vị để mà sống.

Khi con người chưa biết nhận được lối sống an vui vĩnh viễn thật sống huy hoàng, thời dù cho Vĩ nhân Siêu nhân chăng, chỉ hưởng thụ sống trong chốc lát rồi vẫn nơi tạm sống, phải tìm tòi mà sống.

Nó cứ như thế con người phải mua vui từng lúc, cốt giải tất cả những nhọc nhằn, suy nghĩ mang lại cho họ điều vô ích, cho đến nỗi, có kẻ làm thật nhiều tiền sống trên đồng tiền, dùng tiền mua vui, mua lấy cái sống vẫn chưa đáp số, chỉ sống nơi cái hoài mong sống. Có Bậc vừa khôn ngoan vừa có trình độ, thêm vào đó hạnh kiểm tốt, có ba điều kiện Hạnh Kiểm Khôn Ngoan, Trình Độ tiến thân làm Lãnh Tụ hoặc Vua Quan, đầy đủ sung túc, Bậc nầy một là hãnh diện phước báo, hai là hãnh diện nơi quyền tước nhân cách của mình, khi suy lại mơ hồ nơi sống, chỉ đi trong cuộc sống mà sống thôi. Còn phần đông chuyên về Nghề Nghiệp, làm cho thật nhiều, làm để quên những niềm suy tưởng Sống Chết, nên họ vật lộn vất vả, trong lúc làm, nhờ nơi làm giải nỗi lo âu hoặc lấy nơi chỗ làm quên hết những gì chưa đáp số cho họ. Đến tối lăn theo giấc ngủ say quên hết tất cả. Có đôi lúc tự nghĩ thân nơi họ, hay thân con người không khác mấy Con Vật Trâu Bò chỉ biết làm, lấy sự làm mà sống.

Từ sống tạm bợ, sống vu vơ đến cái sống biết nơi mình sống bấp bênh, nên chi mới phát sanh tất cả lối sống phức tạp rược chè bài bạc hơn thua để sống không còn làm thế nào hơn đặng.

Đến nỗi có nhiều bậc muốn thoát sanh đi tìm chốn sống tuổi thọ kéo dài cho đặng sống mãi không bao giờ bị chết, nên mới tu luyện mong đặng sống lâu, hoặc tận dụng Dược Phẩm bồi dưỡng thân mạng. Chính làm như thế nào chăng họ đều biết trước sau cũng không qua đặng cái chết.

Trớ trêu thay! Sống thời Sống nhờ, chết đâm lo sợ, nghèo mong giàu sang, giàu sang đòi Danh Giá Chức Vị, có chức vị danh giá, giàu sang, vẫn không giải quyết đặng sống chết. Thế Giới với con người đến khúc eo thay đổi thân mạng đành bó tay chấp nhận sống tạm ở nhờ. Tất cả con người đa số có trình độ hoặc biết xét về bản thân thì biết lo nơi sống, tìm nơi thật sống.

Cho đến nỗi. Có Bậc đã từng biết sống, nói lên một câu, nhưng chưa mang lại cái nào chốn nào, chỗ nào MÀ SỐNG như sau:

KHÔN VẪN CHẾT. DẠI BỊ CHẾT. BIẾT THỜI SỐNG.

Từ nơi Biết thời sống, tất cả thảy đều hỗ trợ Phẩm Chất nuôi thân, dưỡng thân, dung hòa bản thân, làm chốn an vui. Còn thế giới với con người làm như thế nào Dân Sự thanh bình, vì công cuộc trên căn bản cấu tạo sống, biết sử dụng sống, nên tăng cường Phẩm Lượng, từ sự tăng cường phẩm lượng đến tranh tài trở thành đấu tranh, đấu trí để cầu nơi Biết Sống mà thôi.

Nói như thế chưa phải là tuyệt đối. Có lắm Bậc họ tự tạo nơi Tự Biết để mà sống. Bằng tư cách Tu Tâm dưỡng tánh để phát huy nơi Tự Biết, Tự Giác làm cho họ Biết Sống. Càng sâu đậm thêm, những Bậc nầy, nhìn bối cảnh Phẩm Lượng bên ngoài thuyên dlễn, đem lại bản thân tự biết hơn bị biết đua chạy trong vòng bị sống mà giải quyết Bậc Biết Sống.

Nhưng nào có đáp số trong toại nguyện Biết Sống. Vì sao? Vì từ nơi Tự Biết kia nó ảnh hưởng trong Phẩm Lượng phát huy nên biết sống tùy thuộc về Phẩm Lượng mức độ, không ngoài phạm vi trọng lượng để hoàn toàn biết sống. Tất cả đa số có quan niệm để tự biết mà biết sống. Chớ nào mấy ai đoạt đến hoàn toàn biết sống đâu, nên mới xảy ra nhiều điều đáng tiếc.

Từ đầu Thế Kỷ Hai Mươi, có nghĩa là gần hai ngàn năm Đức Chúa GIÉSU ra đời, Ngài đứng về hàng Thánh, có sẵn TÌNH THƯƠNG bao dung, nên chi Ngài muốn mang cuộc sống ban bố cho tất cả Thế Giới với con người họ gần nhau sống với nhau có Tình Thương cùng nhau đặng sống. Ngài gia công, toàn năng giáo hóa những điểm lành. Ngài đặt cho các hàng Tông Đồ thân cận Đức Tin MÌNH CHÚA đặng về Thiên Đàng sống bền vững.

Tất cả con người trên Thế Giới, đang lo âu được Vị Cứu Tinh hướng dẫn mới Suy Tôn Ngài là CHÚA CỨU THẾ. Công nhận tình thương Đức Độ nơi Ngài sau nầy thành lập CÔNG GIÁO. Đương thời Đức GIÉSU vì nơi Tình Thương minh thuyết chân thành cảm hóa, mới mang về một số Con Chiên. Ngoài ra còn những kẻ bất tín lạm dụng tư riêng dùng nơi tự biết cá tánh nên bất đồng. Ngài bị bọn chúng đóng đinh lên cây Thánh Giá.

Lành thay! Tâm huyết Ngài đã sẵn Tình Thương, nơi tình thương tự biết, tự mang lại ích lợi cho Nhân Loại, Ngài nói lên trong giờ phút, bọn chúng đang hành sự là:GIỌT MÁU CỨU THẾ, liền được ngôi báu Thiên Đàng. Ba Ngôi Nhân Danh Cha và Thánh và Thần a men.

Trước thế kỷ Đức GIÉSU giáng sinh. Tại Ấn Độ Thái Tử Tất Đạt Đa, Ngài sẵn có Tâm Huyết đối với Thế Giới. Ngài tự nguyện nơi lòng giờ phút thiên liêng ái kính tìm phương giải quyết Sanh Tử Bệnh Lão Khổ cho toàn dân. Sau Ngài thành Phật Minh Thuyết Phanh Phui tất cả Thân Tâm làm nơi Tự Biết, lối sống bằng tư cách Hành Thâm trong sự sống tận biết sống Bất Diệt cho con người tự khai hóa về với thật sống.

Lời Ngài dạy toàn lời Chân Lý thực tế. Từ nơi lầm lạc Mê Tín Ngài lần đưa Chánh Tín nâng từng lớp con người, từng thứ bậc lần tỏ Tri Kiến Giải Thoát, chỉ dạy chia ra nhiều Pháp Môn do nơi cô đọng sở chấp con người. Phương Thức Tam Tạng Kinh Điển đọc tụng cho đến bản năng tự biết trong thân mạng chung gồm có Bốn Bài Toán cùng Năm Môn chỉ giáo.

THẾ NÀO BỐN BÀI TOÁN. NĂM MÔN?

* Bài thứ nhất. Bài toán trừ. Bài nầy chuyên ròng Trừ sửa tánh, tâm chí phát nguyện tự sửa tánh. Những tánh tốt nhiếp thâu, tánh xấu gạt bỏ gọi là Sửa Tánh Tu Thân giải tỏa những điều vặt mắc lối sống sự sống đối với con người cùng quần chúng. Khi Bậc đang thực hiện tự nhận có lợi về với bản thân mình trong lẽ sống, phải mang sự lý lợi ích bày vẻ giúp đỡ cho mọi người, gọi là Tự Lợi Tha Lợi. Từ bản thân tu sửa đến trí hóa tu trì phải thực hành bài toán thứ hai.

* Bài toán thứ Hai là bài Toán Cộng. Bài nầy chuyên ròng về tư tưởng dung thông, tâm chí hướng thượng tha thứ lỗi lầm. Lấy lý sự oán hờn giải tỏa dung hòa trong bài toán cộng như: Ta có tánh tốt, rộng rãi thanh cao, nhờ kẻ kia eo hẹp xấu xa bần tiện, nên tánh tốt ta mới có. Bằng không có xấu làm sao có tốt? Nhờ sự hiểu biết nên mới cộng giải thân tâm mà không chê bai khinh rẻ kẻ xấu xa đê tiện. Lại nữa: Thiện Ác, Lành Dữ, Được Mất, Nên Hư, Sướng Khổ đều tương đối phân rẽ. Tại Ác mới làm Thiện do Dữ nên làm Lành, tại Hư nên lập Nên, do Buồn mới cần Vui, mong Sướng thấy Bị Khổ. Nếu dung thông không phân rẽ có chi đâu Thiện Ác. Không lành dữ Nên Hư có đâu Lành Dữ Nên Hư. Không vui buồn, sướng khổ thì lấy đâu vui buồn sướng khổ. Bài toán cộng hóa giải thân tâm không vướng đọng an nhiên tự tại thoải mái vô cùng.

* Bài thứ Ba là bài Toán Nhơn.  Bài nầy nhơn lên Công Năng Công Đức, Nhơn mức tu chứng tín tâm lãnh hội chân lý Phước Báo Nhân Thiên hay Chánh Báo Thọ Báo, cùng với sa đọa nơi con người. Khi nói ra một lời phước điền vô kể, lúc thốt mỗi một tiếng hư cửa hại nhà, nó rất quan hệ từng sự việc. Chẳng khác nào Bậc nghèo mà giàu lòng bố thí, kẻ đói biết thương người đói hơn cứu giúp. Bậc cực khổ chẳng tham lam, Kẻ khốn cùng chưa bao giờ than trách, Ví như: Lúc Đức Phật ra đời, tất cả đều có tiền mua dầu cúng Phật. Có bà quá nghèo, tâm nhiệt thành, hớt mái tóc đem bán lấy tiền mua dầu dâng cúng Phật. Bài toán nhơn là một bài toán, đứng về tinh thần của các Bậc Thiện Căn. Mỗi một Niệm tận thấu Tam Thiên rung chuyển Tịnh Độ. Vẫn một niệm nằm trong chúng sanh tưởng niệm.

* Bài thứ Tư là bài Toán Chia.  Bài nầy thuộc về Chủ Quán. Khi thực hành bản thân ba bài trên: Trừ -Cộng -Nhơn thì bài toán nầy dễ dàng tỏ rõ sâu đậm, dễ nghe, dễ biết, vì đã thoát khỏi vòng bị biết về với tự biết nó rất tự sáng không còn bị sáng, nó như nhiên nhờ bài toán chia mà tỏ rõ tỉ mỉ, nơi thân tâm mình xuất xứ đoạt đến Tha Tâm Thông, Lậu Tận Thông, Thiên Nhãn Thông cùng Thần Túc Thông cùng khắp không còn phân đối.

Bốn bài toán trên mỗi bài có một giá trị vô cùng. Nếu Bậc tu hành chỉ ngồi yên niệm Phật chưa thực hiện bản thân bài toán cộng, thì nó vướng vào thân tâm phân đối, sanh chướng đối ghét vơ, chê bai nhiều kẻ chính mình chưa bao giờ kết quả, Vì sao? Vì bài toán Cộng là một bài tu hành dung thông Lục Hòa vạn nẻo nhận lấy kẻ thù làm bạn, giúp người ác trở thành thiện, cứu bậc xấu trở lại tốt, tâm thân mình trơn liền mà Liễu Đạt.

Đối với con đường tu Phật mà Đức Thế Tôn hướng dẫn, phải tự biết ngay nơi bản thân mình trước nhất, Ngài không bắt buộc tất cả phải tin Ngài, phải tự nguyện giải quyết trên con đường vướng mắc tu đạt đến Kiến Tri Diện Mục mới Tri Kiến Phật Đài. Bốn bài toán chủ yếu Thực Hành Liễu Ngộ, nên mới có câu:

Có làm mới thấu trắng đen.
Chưa làm chỉ nói đã thèm mà thôi.


Kế tiếp Năm Môn chỉ đường vạch lối, hóa giải Đoạn Dị Diệt, khai thông lầm lạc mà chấp mê. Năm Môn chính Ngón Tay chỉ của Đức Phật. Nếu có bậc tu hành căn cứ nơi Năm Môn gọi là Tu Chứng chẳng khác nào tự mình sống trong cái sống của ngón tay Phật. Sự lầm lạc tu hành chấp tự nơi kinh điển, đến lúc Liễu Thông mà thành Phật chăng cũng được gọi là: Đại Phương Tiện Phật Báo Ân Kinh thôi, chưa bao giờ đến mức độ Chánh Giác của Đức Thế Tôn hướng dẫn Trực Ngộ.

Năm Môn gồm có: GIÁO LÝ MÔN. TRIẾT MÔN. TOÁN LÝ MÔN. KHOA HỌC MÔN. SIÊU HÌNH MÔN, chia ra thành Tam Tạng. Nếu Sở Đắc mới biết lời vàng Chân Lý.

Giáo Lý Môn chủ yếu là căn bản Lý Chân thực tiễn. Triết Môn khai hóa mở thông kiến chấp thường chấp, hay chấp, đặng hóa giải nghi chấp. Toán Lý Môn thấu đạt từ hạt cát đến Vũ Trụ bao la, từ nơi tư cách, Thiên Cách, Tiên Cách, mỗi nơi đều có một tư phong cốt cách nhờ lý sự thực hành mà đầy đủ tư cách, từ nơi lý trí mơ màng thoát sanh thông thái. Từ sống nơi lối sống mê tín mong cầu nay đặng tự sống trong căn bản tự trọng thân tâm mà sống. Còn về Khoa Học Môn, Toán Lý Môn đến Siêu Hình Môn, nó nằm nơi Mật Môn trực phá, phải Tu Thiền Tọa tận thấu sạch sẽ Chứng Đạo Bồ Đề.

Tuyệt tác thay ! Sống Động cao quý thay, Tài liệu kinh pháp là ngón tay hướng dẫn bất hủ, kết quả hiện tại, nếu những bậc biết tu. Ta chớ sợ không giải thoát. Chỉ sợ chưa biết tu mà thôi.

Lành thay! Cao quý thay những Bậc đã từng làm bốn bài toán, lãnh hội đặng Năm Môn Báo Ân Chư Phật, báo ân kinh điển tài trợ bản thân đặng Biết Sống thật tế chớ nào đâu bó buộc trong lẽ sống. Tu bị bó buộc nơi sống, chính là con người tu khô khan chỉ nghiên cứu ngón tay Phật đòi lấy trực giác, thì làm sao Giác Chân sống động. Nếu Bậc biết thực hiện bài toán Trừ, liền nơi bản năng quá nhiều tánh tốt, trở thành Quân Tử. Bằng tu hành hoặc giả chưa tu, chí thực hành bài toán Cộng, tâm chí cao thượng sống động trong quần chúng gọi là Bậc Vĩ Nhân. Còn nói chi đến bài toán Nhơn thâu đạt Vũ Trụ, Bài toán Chia Tận Giác Chư Thiên chung khắp từng hạt bụi vi trần Chánh Giác.

Đời nó có muôn mặt. Tất cả muốn hiểu sao cũng được làm sao cũng xong nó sống không ngoài đời. Bằng kiến diện trên chiều rộng của đất, phải có muôn nơi, đi đến nơi nào vẫn là trên mặt đất. Con người sanh nơi đời chỉ trích phê bình đồng bất đồng, một thói thường không chi xa lạ. Khi tìm lấy thật sống bất diệt phải đi trong muôn mặt cái chết mới truy nguyên ra thật sống. Đang ở trên đất liền muôn nơi, Ta hãy đi muôn nơi để mà biết. Lúc đã thật biết rồi không cần đến biết đương nhiên Trực Biết, đó chính là một tự biết giá trị vô cùng. Từ Bậc Vĩ Nhân hay những Bậc đã tìm ra lẽ sống hoặc cứ điểm sống bền lâu thật sống. Một là chưa chu đáo phanh phui để nói. Hai là chưa đầy đủ tâm huyết cứu giúp cho con người bạo dạn nói ra. Hoặc giả quá biết, còn e dè bọn côn đồ phá rối nên chưa dám nói, giờ nầy Ta nói chưa hẳn là một sự nói càng.

Chính ra Phật nói còn bị người ta la. Đến giai đoạn qua rồi mới cho đó là lời Phật nói. Nếu phanh phui mà con người thực tiễn thì sự thật sẽ ra sao? Bằng phanh phui họ chưa chịu thực tiễn nó như thế nào? Tuy lời nói sự hướng dẫn hơi khác. Nhưng vẫn một chủ đích Trực Giác của phanh phui, làm sáng tỏ Phật Đạo mang thật sống cho nhân loài bất diệt, đầy đủ giòng tâm huyết, vạn thế kỷ không sai.

PHẬT ĐẠO ĐỐI VỚI PHẨM LƯỢNG.

Đoạn trước Phẩm Lượng đối với Phật Đạo. Vì tất cả thế giới đến con người, cho đến hàng Chư Thiên Tiên Thần phải nương nơi Phẩm Lượng mà sống, sự lý sống phụ thuộc trong Phẩm Lượng, nên chi Cảnh sanh Tình nó không ngoài Sắc Tướng, tư tưởng cao hoa mỹ gọi là Thiên Tướng, Trình Độ tốt đẹp gọi là Nhân Tướng, đua theo Phẩm Lượng sống nơi Trọng Lượng được gọi là Chúng Sanh Tướng, những tướng nầy đều nằm nơi bị tướng gọi là: Thọ Giả Tướng. Khi Phật ra đời hướng dẫn đến khỏi lầm nơi Thọ Giả Tướng được gọi là Phật Đạo đối với Phẩm Lượng.

Bậc nầy chánh tín giác ngộ, đã từng tích cực tu trì, tu tập, tu hành, bốn bài toán cùng Năm Phẩm Môn rốt ráo tường tận. Lúc bấy giờ đối với Phẩm Lượng không còn trực thuộc, đề cập đến nửa, vì sao? Vì đã từng tỏ rõ lớp lớp vạn pháp, thường diễn hóa, khỏi lầm theo nơi hóa của vạn pháp, nên chi tự tại vô ngại Tổng Trì Đà La Ni Tạng.

THẾ NÀO LÀ DIỄN HÓA?

Bậc nầy Chủ Quán nơi thân mạng, nhìn nhận tại sao thân mạng nơi ta có rất nhiều Tánh Chất xoay chuyển vô số vô biên, không thể nào kiểm kê trong thân mạng nó có bao nhiêu Tánh?

Khi Bậc nầy thật tỏ rõ nơi thân mạng chỉ có mỗi một căn tánh mà thôi. Cũng như mỗi một giống cây nó chỉ có một giống mà thôi, không bao giờ một thứ cây nó có nhiều giống kết hợp. Như Cây Xoài, Cây Ổi, Cây Cam, Cây Quít, cây nào đều phát sanh ra giống trái nấy không sai chạy. Các loài hoa cũng đều như thế, Nếu Hoa Lan, Hoa Cúc, Hoa Hồng, thảy đều cây lan giống trắng vàng màu sắc tùy theo giống mà phát sanh theo màu sắc của nó, nó không sai khác bởi nó mỗi thứ , mỗi giống nằm nơi Diện Mục Bổn Lai mà trưởng thành nên không sai, cho đến Súc Vật mỗi giống súc vật đều có bản năng bản chất phận sự chính của nó. Ví như Con Mèo thì bắt Chuột, Con Chó giữ Nhà, Con Heo canh Máng, con Gà gáy đêm, gọi là mỗi mỗi thảy đều có tác động hành động phát sanh Bổn Lai Diện Mục.

Còn Con Người, mỗi con người có một căn tánh, nhưng chung sống với nhau vô số con người, Tánh kia bị nhiễm do nơi con người thường nhiễm nên mới sanh ra nhiều tánh chất bị nhiễm. Nếu con người chủ quán:Ta tánh nóng hay tánh hiền, tánh vui, tánh buồn thì, Tánh nóng nó phải nóng luôn, tại sao hết tánh nóng nó lại trở thành tánh hiền. Bằng nói ta hiền thì nó hiền luôn, cớ sao nó buồn. Lúc Chủ Quán nhìn nhận tánh thường di chuyển thì tất cả thảy đều không thật đối với ta. Khi truy nhân ra Căn Tánh chính nơi ta bị PHÂN HÓA mà Diễn Hóa, nó mãi diễn hóa ta lầm mê theo Phân Hóa của Diễn Hóa trở thành HUYỄN HÓA. Từ nơi Bổn Lai Diện Mục có một Căn Tánh duy nhất, chẳng khác một giống cây hoa, hoặc một giống cây đã nói trên, Bị Phân Hóa chính ta lầm mà theo hoài vọng chính ta mê chưa hay biết phải đòi sống nơi Huyễn Hóa là nơi sống. Ta phải Vãng Sanh bản thân, hồi sanh tu nơi Bốn Bài, Năm Môn mà đoạt đến CỮU PHẨM LIÊN HOA tận thành Chánh Giác. Khi bấy giờ mới hay: NGŨ UẪN GIAI KHÔNG -ĐỘ NHẤT THIẾT KHỔ ÁCH vậy.

Tài liệu Chí Tôn ban cho Tu Hành thực tế, Phật Đạo chưa bao giờ chỉ dạy hướng dẫn ngoài vòng thực tế. Bởi Ta lầm nơi PHÂN HÓA nên nhiễm Huyển Hóa mà Phật Pháp bị ta hóa thành Vạn Pháp, khi chưa nhận đặng Chân theo Hóa làm sao mà Chánh Giác? Lúc nhận Chân thì biết sống bất diệt mới hay lời vàng minh thuyết chẳng sai.

NAM MÔ DUY NHẤT BỔN SƯ
TẠNG PHÁP NHƯ LAI
TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN