–“PHẬT ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh vũ trụ. BỒ TÁT có quyền chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng.″

15. TẬN DỤNG THỜI HẠ LAI

16 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 9687)
15. TẬN DỤNG THỜI HẠ LAI
Thời Hạ Lai là thời cuối của Thượng Kiếp nó cũng trong thời Đồng Độ, vạn pháp đương thời nó phơi bày đủ mọi mặt, nên chi tất cả Chúng Sanh thảy đều hiện tướng. Sự phơi bày nầy, chứng tỏ tiêu biểu, từ Thượng Sanh đến Hạ Kiếp diễn hai tấm tuồng, nhưng là một thể cách như nhau.

Theo kinh pháp, thuyết minh Chúng Sanh nó VÔ NGÃ, nên chúng sanh chưa có chi tự quyết trong lập trường sáng suốt khẳng định như nhiên, dù có khẳng định, sự lý khẳng định nơi tư thế thụ sinh mê chấp hư vọng chớ nào giác chân khẳng định, vì sao? Vì hình thức hư vọng sáng tạo tư tưởng, tánh tướng bị sanh mà Lai Sanh nhân thế, cho đến nổi Vũ Trụ Tam Thiên cùng hằng hà sa số chúng sanh giới bị thụ sanh ứng hiện, do đó nên chi tất cả Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới mới bị sống không ngoài Tam Giới, chia ra từ Thượng Giới, Trung Giới và Hạ Giới, con người sanh vào kiếp hạ giới gọi là Lai Sanh.

Tam Giới đều sinh sống trong Như Lai Tạng hay Pháp Thân của Đức Đại Nhựt Như Lai Phật, chung gồm có Quốc Độ, Tịnh Độ nhiều hạng chỉ vì các hàng tu chứng dựng nên. Thượng Trung Hạ. Mỗi Cảnh Giới Thế Giới, đều có quy chế Lục Đạo, lục đạo nầy để bổ sung Chánh Báo hưởng thụ, Thọ Báo cực hình phạm vi chúng sanh trong Cõi đó.

Thọ Báo Chánh Báo nó ảnh hưởng kiếp sống tác tạo của chúng sanh, từ hành động đến tư tưởng mà hình thành, như: Rộng rãi, eo hẹp, đắn đo, so tính, Thù Hận, hoặc bao dung cứu giúp mà bị xếp hàng theo thứ lớp của Lục Đạo, không ngoài: Thiên Nhân, A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỷ cùng Địa Ngục.

Ví như: Cõi Thiên hay Cõi Tiên, liền ứng trực thị hiện nơi Tâm Trí Lục Đạo chạy vòng quanh các Thiên Tiên, gọi đó là Lục Đạo của Thiên Thiên. Đến như hiện tại Cõi Nhân mỗi Nhân Sinh đều có Lục Đạo nó bao quanh trong Con Người Nhân Thế. Mỗi Cõi, mỗi Cảnh Giới thảy thảy đều sẵn có Lục Đạo sắp xếp an bài, Lục Đạo chính là nguồn gốc thao diễn, nên mỗi mỗi con người chung khắp Nhân Loại, nhịp nhàng bất tận, vì lầm theo nó mà có, chớ chưa phải Lục Đạo là điều bắt buộc Chư Thiên Tiên với con người phải sa vào Lục Đạo. Khi thật tỏ rõ Lục Đạo không còn bị trực nơi nó, gọi là:Tri Kiến hay Giải Thoát vậy.

Từ mỗi một lối sống, Kiếp Sống tuổi thọ dài ngắn, tùy thụ sanh vào Cảnh Giới. Chúng Sanh toàn diện nơi đó tùy thuộc Quy Chế được sống trong phạm vi tuổi thọ, không quyết định, mà phải nhất định từng Cõi. Như Thế Gian tính ra mỗi Thế Kỷ Một Trăm Năm, mỗi kiếp là 80 tuổi chẳng hạng, đối với hạn lượng Tiên Thần hay Cõi Thiên vẫn như thế.

Còn sự vui buồn sướng khổ, hay trình độ thụ hưởng hay bị hưởng cao thấp khác nhau, nhưng lớp lớp Chúng Sanh không ngoài thụ hưởng và bị hưởng, Chẳng khác ở thế gian Kẻ Giàu Người Nghèo, kẻ sướng người khổ cùng Bậc Chức Vị đến Dân Giả, nhìn sai biệt, mà nơi Lục Đạo bản năng làm căn bản chính.

Đối với Chư Thiên hoặc giả Chư Tiên đến Con Người Cảnh Giới của mỗi Cõi, không thể giải nói với kẻ chưa biết chi, vì kẻ chưa biết họ sống nhỏ hẹp nơi quan niệm, nên họ cầu vái lấy sự cầu vái linh thiêng cho đó là giao cảm. Họ lại Tưởng Niệm thành thử cho tuổi Thọ của Tiên Thần Thánh Hóa sống mãi không bao giờ bị chết, trong vòng sanh tử. Đến nổi Tiên Thần Thánh Hóa còn quan niệm Phật Giới không đổi thay, chỉ tuổi thọ bất đồng mỗi nơi định kỳ kiếp sống. Cũng như: Các Loài Thú Vật quan niệm Con Người sống mãi thì sao?

Trên đã phân định Thời Gian và Không Gian theo Tam Giới. Thượng Trung Hạ. Về Vũ Trụ Nhân Sinh vẫn có Ba Thời vận chuyển Tâm Tánh Con Người, do nơi Thời mà con người bị thời hướng dẫn, Bởi nơi Mê mà Lục Đạo đưa đường, để các Bậc tu hành sát thật chứng tri.

Ba thời trong Vũ Trụ đối với Con Người chia ra là thời Thượng Cổ, thời Trung Cổ được gọi là thời Trung Kiếp hay Hiền Kiếp cũng thế. Còn Hạ Kiếp gọi nó là thời Mạt Kiếp, con người tùy thời mà giảm thọ theo từng thế kỷ.

Thời Hạ Lai Mạt Kiếp là thời cuối của ba thời. Tâm Tánh lối sống của thời Thượng Cổ khác hẳn với thời Hạ Kiếp, nhưng lẽ sống vẫn đồng nhau trong một chiều hướng sống. Thời Thượng Cổ con người ngu dại, nhưng Độc Ác vô cùng giết nhau chém nhau không kiên sợ, Hành hạ hại nhau không Hối, đánh đập nhau chẳng xót thương. Con Người trong thời Thượng Cổ, chẳng khác với loài thú dữ, toàn dân đương thời Thượng Cổ, chỉ biết lương thực món ăn, có thể người ăn thịt người là sự thường trong lẽ sống, nó mãi như thế, cuộc sống lẽ sống trãi qua thời Thượng Cổ có hàng triệu triệu thế kỷ của loài người Hung Bạo Độc Ác làm căn bản. Do hung bạo mới làm Bá Chủ Thượng Cầm Hạ Thú, vì độc ác nên chi con người tự trị con người, ngoài ra chưa có loài nào làm chủ con người được cả.

Con người trong thời ấy xem như Con Vật, nhờ sự khôn ngoan có trí hóa phát sanh, mới phát minh cải hóa đặng nhiều lối sống. Từ chỗ ăn lông ở lổ cho đến y áo cùng các thức ăn hương vị. Con Người lần lượt đến gần cuối thời Thượng Cổ đã có sự sống để Sống. Khi con người có nề nếp sống, thì trái lại bảo vệ lẽ sống do đó nên chi đâm ra kiên sợ sự sống bị đe dọa của mình, sự đe dọa thứ nhất là Hung Bạo, cho nên mới bước sang qua thời Trung Kiếp.

Thời Trung Kiếp là thời xây dựng con người bảo vệ đời sống. Sự bảo vệ nơi căn bản là Đạo Đức, dẹp bỏ tất cả từ Ngôn Ngữ đến Hành Động Hung Bạo, độc ác vô nhân. Thời nầy vẫn tùy thời cơ, thời thế hay thời cuộc trình độ hướng dẫn con người, nhờ như thế nên phát hiện từng lớp nhân loại, từng thứ bậc trọng đại yếu nhân ra dạy dỗ. Tất cả chương trình trong thời nầy, không ngoài LÀM LÀNH, LÁNH DỮ, xa hẳn lối sống sát hại nhau, thương mến nhau, trên thuận dưới hòa, nhẫn nhịn nhau đầy đủ khía cạnh.

Do đó mới có hàng Thánh Nhân, chia ra từng lớp để dễ dàng nhận định, Thánh Tăng, Hiền Triết. Thời Trung Kiếp vẫn trãi qua hàng triệu triệu Thế Kỷ dạy dỗ phát huy được nhiều ngành đến ngày nay mới có. Nó mãi đến cuối thời Trung Kiếp được gọi là Hiền Kiếp. Thời Hiền Kiếp dân rất lành, đời sống sung túc. Nhưng trái lại Háo Danh, từ nơi háo danh đưa lại cho con người ưa thích Thần Thánh Hóa, tự sanh nhiều mê tín, Tế Thần Tế Lễ sát hại súc vật, cho đến nổi mang người ra cúng tế gã bán, dâng cúng cho Thần, được Thần giúp đỡ dân lành an cư làng xóm, do lẽ ấy mới chia ra rất nhiều Tông Phái Thần Linh, chia ra từng giai cấp bất công trong xã hội với con người.

Vẫn đương thời ấy. Thái Tử Tất Đạt Đa, tại Ấn Độ ra đời. Ngài vẫn là Con Người, chung với tất cả con người, có Đức Tánh dung hòa, Nhãn Quang, Trí Hóa kiểm soát Lục Đạo, nhiếp thâu Lục Đạo, hoàn toàn Giải Thoát Vô Thượng Chánh Giác. Ngài là Bậc Toàn Thiện lời chỉ dạy toàn diện, lời toàn diện là lời bất hủ, nơi Kim Thân lời vàng. Lời Vàng giáo huấn cho nhân loại từ một kiếp đến vạn kiếp đều áp dụng xây dựng cho con người đặng an lành, đặng Tri Kiến Giải Thoát. Ngài chính Bậc Thượng Đẳng, hơn tất cả các vị Thánh Nhân, Hiền Triết Thánh Tăng cùng Thánh Đạo, nên chi Thế Gian mới suy tôn Ngài đấng Vô Thượng Thế Tôn.

Đức Thế Tôn Ngài đã tỏ tường Tam Giới nơi thời gian không gian, lại Tận Thấu Thời Cơ vạn kiếp của thế giới với con người, sống nương theo mạch lạc thời cơ quyết định Hạ Kiếp Lai Sanh. Khi đến thời cơ Hạ Kiếp tất cả Thiên Loài Nhân Loại phải chịu tuần hoàn vạn cảnh nơi thời Mạt Pháp chuyển quay. Ngài mới Tuyên Ngôn minh thuyết, sau thời Hiền Kiếp qua, đến Hai Ngàn năm sau Mạt Pháp. Sự sống chết tử sanh biến đổi. Chúng Sanh đang sống rộng rãi trở thành nhỏ nhen, từ thanh cao biến thành đê tiện khó tu, khó chứng do nơi tham cầu tham muốn, mà phải cạnh tranh chạy theo dục vọng.

Trong thời Hiền Kiếp nó dục vọng về Danh Giã, đến thời Mạt Pháp nó nặng về Ngạ Quỷ, Súc Sanh cùng Địa Ngục lai sanh ba đường ác. Thời Hiền Kiếp Nhân Thiên làm chủ trì. Thời Mạt Pháp ba đường ác chủ động, nên chi vướng vào Lý Chướng, Sự Chướng khó tu mà đoạn duyên Phật.

Từ khi Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, bậc tin Phật tu hành nhiều gấp trăm triệu người. Nhưng nhận chân rất hiếm, xem kinh điển nghiên cứu đa phần, còn thực hiện trực giác lại kém. Chung lại nơi Nhân Thế kể ra hàng Trăm Triệu, chỉ chứng quả lấy một vị mà thôi. Vì sao? Vì một là chưa thấu đạt bản thân chơn giác, hai là: tu chưa thấu rõ Thời Cơ hiện kiếp, đa số căn cứ mãi một chiều hướng làm cho đường tu chính mình bị chết khô nơi Tông Giáo. Khi chưa rõ duyên căn thời cơ thời đường tu nơi mình bấn loạn. Sự liễu thông của chính mình nằm nơi giả thuyết. Nếu tận duyên căn thời cơ nơi hiện kiếp mới Thật Chứng thì sự liễu thông kia trở thành lời Minh Thuyết không còn là lời giả thuyết, đó chính là một yếu điểm giải Thoát Môn.

ĐẾN THỜI HẠ LAI:

Thời Hạ Lai là thời Chung Kết Tam Giới. Thượng, Trung và Hạ. Mỗi thời nó có mỗi lối sống. Thời Thượng Cổ đơn giản hung bạo kém trí làm một lối sống. Thời Trung Cổ dạy dỗ xây nền tảng con người theo một chiều hướng làm lối Sống. Thời Hạ Lai phát triển văn minh khoa học làm lối sống, đó chính là ba chỉ tiêu của ba thời đưa nhân loại cho đến đích lối sống.

Lối sống thời Hạ Lai đa phần sống theo lý trí, hơn là Nhân Nghĩa của thời Trung Kiếp. Còn lại một số ưa Trung Kiếp hơn Hạ Lai, nên chi Thân Tâm đang còn ngưỡng vọng Đạo Đức trong căn bản Hiền Lành mới có hai lối sống hiện tại.

Đem so sánh hai thời Thượng Cổ và Hạ Lai mới thấy hai lối sống trở thành một lối sống của Hạ Lai và Thượng Cổ. Con Người thời Thượng Cổ kém trí Hung Bạo, người trị người cùng các loài độc ác. Thời Hạ Lai con người đa trí khôn ngoan không hung bạo nhưng kỹ thuật trị người cao, sử dụng con người với con người theo nền Khoa Học.

Khoa Học Văn Minh hiện đại mà đoạt đến đích hoàn cầu thế giới thì con người có lối sống như Thần Tiên, vì sao? Vì Khoa Học phụng sự cho con người. Nhưng sự tiến triển của khoa học đang thực nghiệm của một vài Cường Quốc, cùng bao nhiêu nước chật vật mua bán đổi chát học đòi trong khoa học để áp dụng con người lấy con người phụng sự nền khoa học, đặt con người chạy theo lớp lớp khoa học, thì làm sao con người tránh khỏi thời Mạt Pháp.

Đứng vào ngành khoa học của Thần Túc Học để phân trách, thì con người vạn vật đang sống trong Vũ Trụ nếu cho nó ăn để nó sống chưa phải cái sống cho nó sống, bằng tất cả nhu cầu sẵn sàng đáp số cho nó sống thời chưa hẳn nó đặng sống. Thật ra nó chỉ sống với tinh thần tinh thần thâu nhận Nguyên Tinh thì nó mới có nơi sống.

Nguyên Tinh Chất là cái gì? Là cái sẵn sống của con người với vạn vật, gọi là thiên nhiên vũ trụ đã có sẵn dung dưỡng tất cả đặng sanh sống. Một khi con người tắt thở, có nghĩa không thâu nhận nguyên tinh thì gọi nó là Chết. Nhưng nào có chết, chất sống một thời gian nào xuyên qua Thân Ma Xác, thân ma xác liền hóa ra vi trùng, sự hộp hóa vi trùng, những loài vi trùng nầy vẫn được sống trong Xác Ma. Phải chăng không có cái chết chăng?

Nền khoa học chưa thâu đạt hoàn mỹ về khoa Thần Túc Học, khoa thần túc học nầy nó nằm nơi Thiên Hòa Địa Lợi, mới thấy con người và sự sống của vạn vật cần có nguyên tinh mới sống, chưa phải khoa học thành tựu hoàn toàn cung cấp cho con người và Thế Giới đặng sống đâu.

Từ nơi chất sống dung dưỡng con người, con người sống không ngoài bồi dưỡng nguyên tinh chất nên chi đã từng hấp thụ chất sống mới phát sanh:Có Cảnh Sanh Tình, tình cảnh hoàn cảnh thực nghiệm thì đặng thông thái, bằng hoàn cảnh than van, tự mình tiếp thu phiền não, khi phiền não hờn giận oán trách thì không thể thu nhận nguyên tinh con người tự sanh đau bệnh. Bệnh hoặc Lão Khổ là nguồn gốc bế tắc nguyên tinh, đó chính lời chân thật.

Tất cả các Đọc Giả cùng các Bậc Tín Tâm tu Phật hãy đọc kỹ, xem kỹ cốt đem đến sự hiểu có ích lợi cho chính bản thân mình là hơn tất cả. Tài liệu nầy là một tài liệu: Đạo Đời Hộp Nhất Trường Tồn Phật Tôn. Nếu là Bậc có chí truy tầm để mà Trực Giác thì mới công nhận tài liệu nầy đúng đắn. Bằng tu đạo để chứng từ có đạo đặng tu thì, khó xem, khó hiểu vô cùng vậy.

Con Người cùng thế giới nương nơi Cảnh mới phát huy do Hộp Tình mà thoải mái, cho nên trên Hoàn Cầu Thế Giới tùy Cảnh tiến triển, tùy Tình mới phát minh của mỗi nước mà Văn Minh Tiến Bộ, mỗi Dân Tộc khác nhau về Trình Độ, dân tộc nơi mỗi Nước trình độ càng cao thì Nước nơi đó sung sướng lành mạnh, trình độ thấp dân tộc đói khổ, đó là nguồn sống sự sống phát hiện ra sự sinh hoạt sướng khổ trợ giúp con người.

Con Người đối với Cảnh, con người khôn ngoan lành mạnh hoặc mưu sĩ xảo trá do Cảnh điều động hướng dẫn con người. Chớ nào phải con người hướng dẫn Cảnh? Ngặt nghèo thay! Đích nơi con người nào có Có, vì con người nương nhờ cái sống nguyên tinh, sự sống do Cảnh hướng dẫn để sống.

Từ vạn Cảnh lần lần thay đổi. Thể cuộc có nhiều bộ mặt đổi thay. Sự đổi thay này chưa hẵn là Cảnh đổi thay hay tình để thay đổi, nó do Nhân Vật có nền tảng suy tưởng mạnh, cho nên được gọi là suy tưởng phát huy, nhưng suy tưởng kia nó không ngoài Lục Đạo mà suy tưởng. Vì sao không ngoài Lục Đạo đặng suy tưởng thời con người nên nhận xét kỷ mới nhìn nhận suy tưởng không ngoài Lục Đạo Hướng Dẫn để con người hộp cảnh sanh tình, thì chính đích chính thuộc quyền Lục Đạo, cơ cấu phụ sở hữu Cảnh dẫn tình.

Lục Đạo là một nguồn máy động cơ, chủ yếu con người không thoát khỏi Lục Đạo nên con người suy tưởng không ngoài suy tưởng: Thiên, Nhân, A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỷ và Địa Ngục. Thiên Nhân là suy tưởng thanh thoát. A Tu La là Nóng Giận. Ngạ Quỷ Căn căn tánh tham lam, Súc Sanh Giới là vòng đai mong muốn. Địa Ngục Môn, tự mình độc ác phải tự mình chui vào. Con đường Lục Đạo bao vây, tùy theo Thời mà xuất hiện nơi tâm tánh con người, Chính thời Hạ Lai nầy, Đơn Vị Hung Bạo của A Tu La, Giòng Dỏi Súc Sanh Giới. Địa Hạt Ngạ Quỷ Căn. Hùng Biện Địa Ngục Môn. Bốn Tướng làm chủ trì điều hành con người cùng thế giới phải chịu. Còn Thiên Nhân trong thời Hạ Lai rất hiếm, chỉ nơi lòng của một con người nào ưa chuộng gìn giữ mới huân tập nó lai vãng đến từng lúc với vị đó mà thôi. Vì sao? Vì Nhân Thiên Đạo hai đạo nầy, thời Trung Cổ làm chủ động, thời Hạ Lai phụ tá mà thôi.

Đến thời kỳ Bốn Tướng phát huy, chủ đích của con người theo Bốn Tướng. Ba Đường Ác thạnh hành, tất cả con người thảy đều hiện thân theo bốn tướng mà hoạt động, chỉ dùng món ăn làm lẽ sống, lấy y phục Cửa Nhà khang trang giàu mạnh làm chỗ sống, lấy giống Đực và giống Cái thông Dâm làm mức sống. Ngoài ra tranh giành đấu trí nhau, đến lúc thất bại sanh ra chém giết nhau, bảo hệ Bốn Tướng trong lớp sống Hạ Lai.

Thời Hạ Lai Mạt Kiếp con người rất Khôn Ngoan, có bộ óc tự lập có lý trí tự do, tự do kia mỗi con người thảy đều mang lấy nó, nên mới xãy ra nhiều lối tự do quái đãn, chẳng ai nghe lời ai dạy cả, họ có nhiều lý trí bác bỏ nhiều vấn đề, dù vấn bồi dưỡng bổ ích bản thân nơi họ, họ vẫn chưa chịu nghe dù cho có nghe không thực hiện làm sao kết quả được bổ ích, trở thành không bao giờ qua được trở lực của Lục Đạo mà thoát sinh.

TẠI SAO KHÔNG QUA NỔI CHỦ LỰC LỤC ĐẠO?

Do mỗi một con người có một đích sống quan niệm lẽ sống của một tướng môn thì làm sao qua chủ lực được Sáu Đạo mà thoát sinh khỏi Lục Đạo.

Có kẻ ưa thích Tướng Môn A Tu La hay A Tu La Thần Quỷ, hoặc giòng dỏi Súc Sanh giới, hoặc Ngạ Quỷ Căn cùng Địa Ngục Môn, đều tường tận, chứng tỏ tướng môn nơi mình là hơn hết, chẳng bao giờ nghe tướng môn khác trình bày. Sự tự mãn đường đi, nước bước tự hào tự tín, thành thử mỗi mỗi đều gìn giữ quan niệm, nên không thể nào làm sao qua khỏi Lục Đạo. được gọi là: ngành nào theo ngành nấy, chỉ vì nó đã thụ nghiệp.

Thời Hạ Lai thuyên diễn, nó đi ngược lại với thời Trung kiếp quá nhiều, nhưng theo tâm khảm tấm lòng nhân loại vẫn ước mơ mơ ước, nuôi mộng Hiền Nhân, cho nên Lục Đạo ngọn gió phong trào đưa đẩy bằng cách nào, khi con người tham vọng đến tuyệt vọng phải hồi hướng Trung Kiếp Lai Sanh. Sự thuyên diễn nầy không riêng chi nhân loại mà chung tất cả những Bậc đã từng nhất định thoát sanh, truy tầm phương thức pháp môn giải thoát, phải lăn mình trong Đạo Giáo Tôn Giáo cầu lấy Tu Chứng Thực Chân để chứng tri Phật Đạo.

Càng xả thân cầu đạo bao nhiêu lại càng lưu trữ giáo điều tam tạng kinh điển hồi hướng mơ tưởng hoài vọng nơi Trung Kiếp của Đấng Chí Tôn lưu Lại, đến giai đoạn xem như tan vỡ mộng vàng vẫn nằm trong Phước Báo cầu báo như tất cả quần sanh không hơn kém. Sự hiện diện kiến tri của Phật Đạo, đối với nơi nhận định của con người rất khác biệt nhau, một bên hiện nơi Lục Đạo hiện hành, nhân sinh kết quả, còn một bên huân tập Trung Thời, bị sống nơi mơ màng chân lý, thì biết tính sao đây? Do nơi đâu mà trở nên như vậy? Do nơi chưa biết căn cơ của mỗi mỗi chúng sanh giới mà hướng dẫn. Tại chưa rõ Thời Cơ nơi kiếp Hạ Lai để tu hành hiện thân theo dân chúng mà huân tập Giác Chân, đặng Sở Đắc Nhất Tướng về với Như Tướng mà Viên Thông, cứ mãi gìn giữ Giáo Điều gọi là xây dựng, nào có xây dựng chi đâu lại bị sanh muôn ngàn tâm chí Cô Đọng, tự phát sanh nuôi dưỡng không chấp bị chấp không gọi là Chánh Pháp.

TẬN DỤNG THỜI HẠ LAI

Phật Đạo tùy Căn Cơ cứu độ, tùy Thời Cơ lưu hành, mới Chứng Tri Phật Đạo. Đó là chính yếu đối với Bậc Tu Phật. Chỉ sợ chưa biết Tu, chớ đừng sợ không Giải Thoát. Đương thời Hạ Lai, dù cho Đức Di Lạc Tôn Phật ra đời chăng, vẫn tùy thời mới xuất hiện, vẫn tùy căn cứu độ Tứ Loài. Ngài tùy thời đặng Thượng Sanh Đâu Xuất Môn. Ngài tùy Căn Hạ Lai Vô Thượng Tôn.

Nơi Hiền Kiếp Hạ Lai, tất cả nhân sinh tứ loài thảy đều hiện thân Lục Đạo, đa số từ A Tu La, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Địa Ngục, còn về Nhân Thiên đứng vào hàng thiểu số, thời làm sao Di Lạc Tôn Phật hiện thân Thiên Nhân cứu độ?

Ngài đã từng minh thuyết:

THƯỢNG HẠ HOÀ AN HẢO
SUY TÔN KHAI ĐẠO TRÀNG
NGÔN TRI KIẾN PHẬT
HOÀN TẤT GIẢI THOÁT MÔN

Ngài vừa minh thuyết xong, thực hiện Tận Dụng thời Hạ Lai. Thiên Tiên mừng rỡ vỗ tay. Địa Tiên than thở châu mày khóc than. Nhân Sinh đi đứng ngỡ ngàng. Các Hàng Bồ Tát cười vang vui mừng.

Vì sao? Vì Thiên Tiên là Bậc nhẹ cảm, từ quá khứ vị lai rất giao cảm với bậc nầy, tất cả di chuyển điều động vạn pháp xuất hiện hay lưu hoàn thảy đều tỏ thông liễu ngộ, chỉ sút kém với hàng Bồ Tát chưa biết thân mạng nơi mình đổi thay, thay đổi như thế nào để giải quyết Sanh Tử Lão Khổ mà thôi.

Bậc Thiên Tiên nhìn thấy Vũ Trụ Thanh Quang buông tỏa, dân cư an lành, đến thời Hạ Lai Mạt Kiếp Địa Ngục phát sanh, khói nghiệp tràn đầy, liền có Huỳnh Quang nương theo cứu độ. Nhìn Huỳnh Quang cứu độ Tứ Loài, Thiên Tiên mừng rỡ vỗ tay.

Còn Bậc Địa Tiên than thở châu mày khóc than. Bậc Địa Tiên, luôn luôn ngưỡng vọng thời Trung Kiếp, sống mãi nơi lòng của Địa Tiên. Đến giai đoạn hỏa ngục phất. Phật Đạo tận dụng thời Hạ Lai cứu độ. Tất cả hàng Bồ Tát tận dùng nơi Phổ Môn Quán Âm Thị Hiện mà cứu khổ. Hàng Địa Tiên nào hay biết, than thở Phật Đạo suy đồi, mạt pháp làm cho Phật Đạo tan vỡ, Chư Thiên sa đọa lai trần, Bồ Tát lai sanh nơi Địa Ngục mà than khóc.

Hàng Nhân Sinh nào hay biết, hiện tại lối sống ra sao, tương lai như thế nào, cầu Đạo chưa tường trong lối Đạo, biết nơi nào là chốn Phật Đường để gởi xác nuôi thân mạng sống chết ra sao? Tất cả nhân sinh đang ngơ ngẩn chưa truy tầm ra Chơn Giác. Từ chỗ mơ hồ ám ảnh, Phật Thuyết Ma Thuyết ra sao, gìn giữ Giáo Điều tiểu căn làm nơi Phước Báo làm lành tránh dữ, đặng yên thân.

Các hàng tu Đại Thừa thực hành Hạnh Bồ Tát, nương vào vạn pháp viên thông. Tịnh Bất Tịnh thảy đều nhiếp thâu tận giác. Do đó mới kiến tạo công năng nương nhờ nơi Công Đức mà Tận Dụng thời Hạ Lai mà Sở Đắc.

Thời Hạ Lai chính thời Đồng Độ, sự tu hành đặng Phước Báo quá nhiều, nơi Thiện Căn được đáp số chưa phải là ít. Nơi biết Tu tận dụng Hạ Lai mà Giác Ngộ. Tất cả Nhân Sinh Tứ Loài nương vào Hạ Lai Mạt Kiếp được độ Nhân Thiên. Đức Di Lạc Tôn Phật Tận Dụng Hạ Lai Tận Giác Vô Thượng Tôn. Tuyệt tác thay. Lành thay! Lành thay! Đức Chí Tôn Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật khéo biết, khéo tường tận chốn Hạ Lai Đồng Độ.

NAM MÔ ĐƯƠNG SANH HẠ LAI DI LẠC TÔN PHẬT
Kỷ Niệm Thời Hạ Lai