–“PHẬT ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh vũ trụ. BỒ TÁT có quyền chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng.″

TUYÊN RÕ VỀ NHẤT TÔN PHÁP TẠNG

16 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 15926)
TUYÊN RÕ VỀ NHẤT TÔN PHÁP TẠNG
NHẤT TÔN PHÁP TẠNG thời Bất Nhị Nhất Thể. Vô Thủy, Vô Chung liên tiếp duy nhất gồm có BA ĐỨC PHẬT đồng một chữ A như sau:

Đức Phật A ĐỀ, Đức Phật A DI ĐÀ, Đức Phật A DẬT ĐA (DI LẠC) Chủ Tọa Điều Ngự gọi là Giáo Chủ Nhất Tôn NHƯ LAI TẠNG.

Thừa Hành giữa thời nầy, Đức TỊNH VƯƠNG PHẬT đảm nhiệm làm GIÁO CHỦ Nhất Tôn Pháp Tạng. Hiện Thân TĂNG CHỦ TỊNH VƯƠNG (DI LẠC) gọi là con đường BỒ TÁT ĐỘ, Duy Nhất từ Hành Dụng đến Diệu Dụng để cứu độ, đưa tất cả được Tri Kiến Giải Thoát hiện tại nên đồng thanh ứng hiện trọn dùng HỮU-VÔ trùm khắp trên dưới tự tại gọi là Ứng Thân BỒ TÁT PHẬT.

Từ Khi Nhất Tôn Pháp Tạng mở đầu Vô Thủy Vô Chung Vô Lượng Thọ Vô Lượng Nghĩa không thể đo lường đếm tính đặng. Thời tất cả NHƯ LAI cùng ĐẠI NHỰT NHƯ LAI PHẬT và Chư PHẬT với các hàng Chư BỒ TÁT đặng độ, đặng Hóa Thân Vô Lượng Vô Số Vô Biên khó suy nghĩ khó đong lường. Nhưng mỗi hàng BỒ TÁT, mỗi Thứ Bậc thảy đều làm không ngừng nghĩ trong Nhất Tôn Pháp Tạng như sau:

NHẤT TÔN NHƯ LAI Chứng Minh.

ĐẠI NHỰT NHƯ LAI PHẬT. Khi đồng Như Lai, lúc hòa cùng Chư Phật. Ngài dung hòa dung chứa Thị Hiện SẮC, KHÔNG SẮC. THINH, KHÔNG THINH. HƯƠNG, KHÔNG HƯƠNG. VỊ, KHÔNG VỊ cùng XÚC PHÁP, KHÔNG XÚC PHÁP và các TỊNH ĐỘ, QUỐC ĐỘ HỮU VÔ NIẾT BÀN đến ĐẠI NIẾT BÀN. Tất cả Bí Mật Kín Nhiệm di chuyển do Ngài nắm giữ. Từ Thần Thông đến các Tam Muội qua GIẢI THOÁT.

Khi nào NGÀI Ban Hành Thị Hiện?

Lúc Bồ Tát được sự Thọ Ký của Chư PHẬT. Khi NHƯ LAI NHẤT TÔN Chứng Minh rốt ráo. Từ Thần Thông đến Tam Muội qua các Hiện Thân đến Giải Thoát Viên Mãn BA THÂN Ngài thảy đều gìn giữ khó nói, khó bàn đặng.

Tất cả Thế Giới, Cảnh Giới mỗi một khẽ động di chuyển Ngài thảy đều cung cấp trường tồn bất diệt. Từ một nơi, một Thế giới hay Trăm Ngàn Vạn Ức Ô Trược Mạng Trược Ngài làm trở thành TỊNH ĐỘ hay QUỐC ĐỘ trong một Sát Na.

Ngài lại gìn giữ TÂM ẤN-MẬT ẤN, nên đối với NGÀI thật khó nói, khó nghĩ bàn.

Đức ĐẠI NHỰT NHƯ LAI PHẬT tất cả đều khó nói, tất cả đều Tán Thán vô lượng vô biên xứ đều cung kính với Oai Thần Tối Thắng Diệu Âm của NGÀI.

CHƯ PHẬT có nhiệm vụ THỌ KÝ và DIỆU ĐỘ Chư BỒ TÁT.

CHƯ PHẬT chỉ dạy cho Chư Bồ Tát thành tựu Phật Quả đồng Thọ Ký cho Chư Bồ Tát trong đường Hạnh Nguyện đưa Chư Bồ Tát Ngũ Nhãn Lục Thông Tam Thân Tứ Trí đồng thành Phật.

Còn Chư Bồ Tát Tín Hạnh Nguyện để lãnh hội các Pháp và Chân Lý huấn từ của Chư Phật mà Sở Đắc.

Chư BỒ TÁT Độ Sanh với con đường Hạnh Nguyện Lục Ba La Mật Đa, thâm nhập Pháp Giới thành tựu Bát Nhã Trí, được Trí Tuệ Vô Ngại. Đức Hạnh ứng thân rốt ráo từ HỮU LẬU đến VÔ LẬU không Hai hoàn toàn Tri Kiến hoàn toàn Giải Thoát.

TRONG THỜI HÓA ĐỘ CỦA CHƯ PHẬT:

Thời kỳ nào PHẬT hóa độ tất cả Chúng Sanh và Bồ Tát?

Thời Đức Phật ra đời, chưa có Thể Hiện Bồ Tát, thì PHẬT phải Hành Dụng đến Diệu Dụng chung Một hai thứ gọi là : BỒ TÁT PHẬT. Khi Chúng Sanh Giác Ngộ hoặc Đắc Pháp thì Phật trở qua Đốn Pháp để cho chúng sanh Hiện Thể, thời nầy gọi là PHẬT hóa độ Bồ Tát. Qua thời Bồ Tát hiện thân đầy đủ hoặc chưa đầy đủ thì PHẬT mới thi hành Tịnh Bất Tịnh, Thuận Nghịch quyết đưa Chư Bồ Tát qua các trở lực ngăn ngại mắc miếu thân tâm tập nhiễm tập khởi trong LÝ SỰ chưa đồng đến Đồng,chưa đặng đến Đặng, chưa đắc đến Sở Đắc hoàn toàn mà thành PHẬT.

Nên PHẬT hóa độ khó nghĩ bàn, khó phê phán, vì sao?

Vì Phật diễn ra các Pháp chẳng thiếu sót. Từ Bồ Tát chưa bao giờ nhìn đặng, thời làm sao chúng sanh biết nổi việc hóa độ của Chư Phật? Làm cho Sức Lực công năng của Chư Bồ Tát chịu đựng tiến triển thọ lãnh đầy đủ của NHƯ LAI TẠNG mà rốt ráo ĐẠI NIẾT BÀN.

Sự hóa độ của Phật, chỉ có Phật với Phật biết, Phật đưa từng hàng Bồ Tát bởi Tịnh hay Thuận mà Thọ Chấp, Phật làm cho Bồ Tát ấy Tâm không phân biệt dị biệt, được suốt thông Tịnh, Bất Tịnh đến Thuận Nghịch thực thi rỗng rang trùm khắp thành PHẬT.

Lại vì hàng Bồ Tát hay hàng Đắc Pháp đứng yên nơi CHỮ KHÔNG cùng với Trí Tuệ Ngôn Ngữ Văn Tự làm Sở Chứng. Phật phải hóa độ phiên diễn các Pháp, làm cho Bồ Tát nghi chấp đến Phá Chấp, chẳng còn ngăn ngại trí tuệ suốt thông, không còn quái ngại nơi Thấy Nhãn Tịnh, đến Thật biết tỉ mỉ lìa ngôn ngữ Văn Tự Sở Đắc Bát Nhã Trí đồng song thành Phật.

Phật hóa độ, tất cả nghi Phật thật Ác, Phật hóa độ chư Bồ Tát phải nghi thật là Nghịch, dù có Ác hoặc Nghịch chăng thời khó nghĩ bàn, vô lượng hóa độ, vô lượng Diệu Dụng Bồ Tát nhìn chưa thấu, thì phàm phu lấy đâu để hiểu? Phật chỉ vì Bồ Tát đứng yên thọ chấp mà phải hóa độ như thế, để được Thọ Ký và Chứng Minh của NHƯ LAI.

Bậc Bồ Tát còn Nghi hay phân vân chưa chu đáo Hữu Lậu Vô Lậu, tác dụng, tác tạo các Pháp, cùng với Trí Tuệ chướng hay Tướng Pháp ngại ngùng, hoặc tự tại Trí Tuệ mà chưa thật tỏ tỉ mỉ Đúng Sai thường bị Chướng Đối, mơ mộng Niết Bàn khi thời Định Tưởng hoặc Thường Tưởng hay Ly Tưởng cứu cánh rốt ráo bằng Không Pháp. Hoặc Bồ Tát quán Tự Tại Vô Ngại phá nghi phá Tương Đối, phá Thân Khẩu Ý xuất ly đặng gìn giữ Tư Duy nên chưa tỏ rõ di chuyển Pháp Tánh, chưa biết được Thường Tánh thì làm sao chu đáo Diệu Tánh Niết Bàn? Bậc Bồ Tát như vậy mà bắt chước hóa độ nơi Phật làm hành dụng tác tạo Nghịch Hành, thật là nguy hại vô kể.

Đối với Phật, Phật nói ra những lời nói toàn là: KHAI THỊ. Chớ chẳng bao giờ lời nói nơi Phật là Thuyết Pháp. Phật vì Bồ Tát mà Khai Thị để đưa Bồ Tát thành Phật Quả. Bồ Tát biết lời Vàng nên tán thán Kim Thân Hoa Đàm khó gặp liền được Chứng Ngộ NHƯ LAI TẠNG. Bồ Tát lại biết lời Phật nói là Nhất Tôn Bất Nhị, dù cho Ngài phân biệt tỉ mỉ hoặc phương tiện đủ cách nhưng vẫn Nhất Tôn, liền Sở Đắc Nhất Thế Chủng Trí.

Khi Phật ra đời khó gặp, Nhất Tôn Pháp Tạng Tin thật khó bàn. Nếu bậc Bồ Tát Tin thời Bồ Tát ấy khó nói đến sự cúng dường Tam Thế Như Lai Tạng vô lượng vô kể.

Nếu có một vị Bồ Tát tu vạn hạnh bên ngoài, từ phương Đông đến phương Tây hay Nam Bắc chẳng hạn, cùng với Trí Tuệ suốt thông. Khi nghe Nhất Tôn Pháp Tạng chưa biết hoặc đã biết. Đương thời Diệu Dụng BỒ TÁT PHẬT cùng sau Thể Hiện BỒ TÁT với TỨ CHÚNG sẵn sàng.

Bậc ấy nói Ta Sở Đắc Chân lý và Ta đã thành Phật, dù cho Bậc nọ sở đắc hoặc thành Phật thật sự đi nữa mà chưa biết nơi Chứng Minh Nhất Tôn, chẳng Tin sự Chứng Minh có lòng Ngã Mạng Tự Mãn thì cũng chưa đến rốt ráo để nhập Đại Niết Bàn, vì sao? Vì chưa đặng Thọ Ký Nhất Tôn thì làm sao đến Như Lai Nhất Tôn Chứng Minh, đã chẳng đặng Chứng Minh thời làm gì có Đại Nhựt Như Lai Phật ban hành Thị Hiện cảnh Đại Niết Bàn, do lẻ ấy mà bậc kia phải dùng Định Tưởng đã Định Tưởng thời còn Sanh Diệt, đó chính là trọng yếu thứ nhứt.

Lại có Bồ Tát dùng lời lẽ thuyết pháp y như Phật, mà chính Bồ Tát ấy chẳng biết chỉ hướng cho Chúng Sanh hoặc chưa biết rõ sự nói năng lợi hại của Pháp, vì Chúng Sanh chưa giảm Nghiệp Lậu và Tham-Sân-Si nên thường chứa nhóm trụ chấp nên khi nghe đã không đem đến sự lợi ích cho Chúng Sanh còn làm cho Chúng Sanh tăng thêm tham vọng, thêm kiết sử đảo điên ham muốn, dù cho vô tình chưa rõ mối nguy hại, nhưng Bồ Tát đã lầm cho chúng sanh uống phải độc dược cuồng quay tăng thượng hay đoạn duyên Phật, thời Bồ Tát liền phải lạc hướng mất Hạnh vòng quanh theo Lục Đạo để cứu vớt sự lầm thuyết của mình, đó là điểm nguy hại thứ hai.

Bồ Tát nhìn thấy chúng sanh vì mê chấp lầm nhận ngăn ngại, Bồ Tát chỉ dạy cho Chúng Sanh tu tập Phá Chấp. Khi mà chúng sanh Tin lời giải thuyết của Bồ Tát để Phá Chấp liền khỏi sự lầm nhận nhiều ít, chúng sanh vui mừng nung đúc phá chấp tự nuôi Bản Ngã tăng thượng bên trong chắc chắn sẽ thành Phật nay mai, vì mê lầm làm chúng sanh đến Giác Ngộ là Phật, nên chi Chúng Sanh ấy xem việc Đức Hạnh công năng chịu đựng là Chấp pháp, học hỏi thâm nhập Pháp Giới là Chấp pháp, tất cả việc Hạnh Nguyện phát Bồ Đề Tâm đều Chấp pháp, đến một ngôn ngữ văn tự đều Chấp pháp, mà thật chính Chúng Sanh ấy chưa hiểu gì cả, dùng lời thuyết như cái máy nói nên bừa bãi Tăng Thượng, xem Chư Phật và Như Lai là môn sở thuyết, chớ không ngờ là Chánh Báo Viên Mãn Ba Thân rốt ráo Đại Niết Bàn Bất Nhị, đó là điểm nguy hại thứ ba.

Bồ Tát vừa hiểu vội chấp nhận biết, vừa biết vội chấp nhận đã Đắc. Khi mà Bồ Tát hiểu được Lý Vô Sanh, chớ chưa đến tỏ rõ Vô Sanh. Lúc Bồ Tát hiểu Tâm không có chổ chỉ cùng vạn pháp do Tâm Sanh. Nhưng chưa biết thật tỏ rõ Tâm là cái gì ? Bản Thể Tâm ra sao nên tu hành Hạnh Nguyện chê Pháp nầy, khen Pháp nọ, thờ ơ tối sáng được mừng mất buồn đảo điên theo Tâm Pháp. Bồ Tát có thể xem kinh hiểu câu rốt ráo là Niết Bàn hay Ba Thân Tứ Trí Ngũ Nhãn Lục Thông cùng Không Tâm Niết Bàn đến Viên Mãn, do đó nên vội chấp nhận Định Tưởng Giả Tưởng Kiêu mạng cho ta đã sở đắc, đó chính là điểm nguy hại thứ tư.

Bồ Tát lại đương dùng nơi hiểu biết của mình hiện tại hay Định Hướng nơi mình mà đem áp dụng thuyết giải nói năng các Cảnh Giới cho chúng sanh nghe, trái lại Bồ Tát chưa thấu đáo. Vì định tưởng tham muốn Thiên Tướng chính mình mà đem nói, các chúng sanh nghe thích khen tặng Bồ Tát hăng say nói quá trớn làm cho chúng sanh Cuồng Tín, chính Bồ Tát ấy cũng bị Thọ Giả Tướng. Khi mà chúng sanh ấy theo cuồng tín chẳng ích lợi, sinh tâm chán mà thối Bồ Đề đoạn duyên Phật, đó là điểm nguy hại thứ năm.

Bồ Tát lại vì chúng sanh nói cho chúng sanh lìa bỏ đố tật chướng nghiệp Tham Sân Si, nói Nhân Duyên, nói tất cả những ích lợi Tri Kiến, nói từng sự nguy hại của Tham Dục, tâm nhỏ nhen eo hẹp, làm cho chúng sanh nghe được, lãnh được mà Phát Bồ Đề Tâm cầu Tri Kiến Giải Thoát.

Bồ Tát trước khi nói pháp phải vì chúng sanh nương chìu xíu đỉnh, sau lần đưa cho chúng sanh vào con đường Tỏ Tánh, Đức Hạnh Ngôn Ngữ thanh duyên để cho khỏi đoạn duyên Phật, khỏi nghi Tam Bảo, chúng sanh ra đi được xóm làng quý mến trên dưới thuận hòa, đó chính là Bồ Tát khéo nói và khéo tu hạnh Bồ Tát vậy.

Bồ Tát nên y kinh để Liễu Nghĩa, nên dạy chúng sanh nghe Pháp cốt tỏ biết. Chớ chẳng nên y kinh Bất Liễu Nghĩa dạy chúng sanh nghe Pháp chớ nên thuộc lòng không hiểu nghĩa sau nầy sẽ Bị Biết, dạy chúng sanh thật biết Hữu Lậu, thật rõ Vô Lậu Hữu Vô đều tỏ rõ, chớ vì Hữu mà nặng, chớ vì Vô để chấp. Lại cũng chớ vì Hữu mà Đoạn, chớ nên Vô mà lìa, đó chính là Bồ Tát khéo cúng dường Tam Bảo, khéo đưa chúng sanh chẳng lấy cũng không bỏ.

Còn phần Chúng Sanh cầu Tri Kiến Giải Thoát thành tựu hiện Thân Bồ Tát thời phải tu thế nào?

Chúng Sanh nhất tâm tu cầu đến kết quả hữu hiệu thì nên căn bản Đạo Đức Ngôn Hạnh và BI TRÍ DŨNG. GIỚI ĐỊNH TUỆ, thi hành Lục Ba La Tứ Nhiếp Pháp, phát Bồ Đề Tâm Nguyện cho thù thắng để qua bờ ngăn chấp của BA LỐI là: ĐOẠN-DỊ-DIỆT.

THẾ NÀO LÀ: ĐOẠN?

Chúng Sanh thường Nghi, chấp nhận cái Nghi của mình mà bỏ tu. Chúng Sanh Tham Cầu, Tham Biết, Tham Cuồng Tín để thọ chấp mà bỏ tu. Chúng Sanh vừa hiểu biết chút ít cho là Sở Đắc bất tín lời Pháp cho là lý luận ngôn luận đặng bỏ tu, cùng tất cả trái với mơ ước điên đảo bỏ tu thảy đều gọi là: ĐOẠN.

THẾ NÀO GỌI LÀ: DỊ DIỆT?

Chúng Sanh bởi mê lầm nên thân tâm pháp giới đều thọ chấp ngăn ngại, tự sanh nhiều mong muốn đảo điên, nên đảo điên động vọng nó làm Chủ, do lẽ ấy gọi là Chúng Sanh, nếu rõ biết tỉ mỉ thật biết chẳng còn lề thói trên liền hiện thân BỒ TÁT hay PHẬT không hạn.

Khi tu cầu hiện thân thời hai Pháp DỊ và DIỆT nó làm cho Chúng Sanh khó nghe Phật Pháp, khó hiểu nổi Dụng Độ của Bậc Thiện Trí Thức, nó làm cho chúng sanh thường nghi để mà chấp nhận nơi mình là phải, đặng dắt dẫn chúng sanh vướng vào Dị Diệt. Nếu Chúng Sanh nhất tâm thù thắng TIN VÂNG KÍNH để nghe lời chỉ dạy, điều ngự phá nghi chấp lần tỏ biết đặng Giác Ngộ thì chẳng nói chi, bằng không qua nổi Đoạn Dị Diệt khó hiện thân đặng.

Ba pháp Đoạn Dị Diệt nó tùy theo chúng sanh Thọ Chấp mà trở ngại lối ngăn biệt. Bậc càng tu khá bao nhiêu thời nó lại càng khó gìn giữ Đoạn Dị Diệt bé nhỏ bấy nhiêu. Phần nhiều nó ở nơi tế nhị mà thọ chấp, nó ở nơi tinh vi mà vương phải, đó chính là điểm ngăn không lối thoát vậy.

NAM MÔ PHÁP TẠNG HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT
NAM MÔ TỊNH VƯƠNG PHẬT
TỊNH VƯƠNG