Ngài khai đạo từ năm 1957, khai thị Phật Pháp, truyền Thiền, nương chiều tứ chúng vào tu tập đông tới 3000 Chân Tử. Sau
đó bắt đầu từ năm 1974 Ngài ấn quyết mở khoa thi bằng cách dụng Hữu-Tướng cùng Phi-Tướng nghịch hành còn gọi là Pháp Tịnh cùng Bất-Tịnh.
Dần dần, đến năm 1976 toàn thể trong Long Hoa hội chân tử nào cũng biết Ngài có vợ bé là người Chân Tử trong đạo. Lúc này đã lộ rõ số Chân Tử chướng đối và nghi chấp bỏ đạo gần hết, chỉ vọn vẹn kiểm lại không quá mười (10) Chân Phật Tử.
Ngài viết Ấn Chỉ III khai thị những bậc tu và lưu lại mai sau cho hàng Bồ Tát, Tôn Giả, Hộ Pháp cần biết nhận định lý nghe quá nhiều, học quá nhiều, nghiên cứu Tam Tạng Kinh không thiếu sót nhưng phải thực hành không đối chướng, lìa chấp, tu hành theo pháp môn Vô Lượng, Vô Biên, Vô Ngã... mới mong đến bờ Chánh Giác. Luôn luôn dụng pháp ghi nhớ không được quên gọi là niệm niệm hai chữ HỶ – XẢ cho sạch sẽ mới từ Đại Thừa bước vào Nhứt Thừa được./-
Hình ảnh căn gác gỗ đường Núi-Một Nha-Trang. Sau khi Đức Ngài mở Pháp Bất Tịnh, Ngài đã ở đây với người Thị Giả trợ duyên –vợ bé– để Ngài mở khoa thi hay còn là Pháp Tri Kiến Phật cho nhân sinh thời này cũng như muôn đời sau. Ngài đã từng thốt lên "Dù Nhân Sinh có bạc đãi Ta, Ta vẫn đưa con người đi Giác Ngộ."
Hình ảnh lấy ra từ phim tư liệu Pháp Tạng năm 2009. Tình trạng căn gác gỗ vẫn còn y như ngày vào những năm 70, 80 lúc Ngài ở đó.
Cầu thang lên căn gác. | Vừa lên thấy ngay sàn gỗ. |
Vách dựng bằng phên tre. | Mái tôn không có trần. |