–“PHẬT ra đời có thẩm quyền độc lập chứng minh vũ trụ. BỒ TÁT có quyền chứng minh chúng sanh cấp bậc tu chứng.″

22. Lời Khai-Thị trước ngày Bát Đại Niết Bàn

15 Tháng Hai 201112:00 SA(Xem: 31518)
22. Lời Khai-Thị trước ngày Bát Đại Niết Bàn
Đức Long Hoa Tăng chủ hóa thân Đức Di Lạc Tôn Phật khai thị trước ngày Bát Đại Niết Bàn.

• Trước giờ phút Ngài nhập Bát Đại Niết Bàn.
Bà Tạng Trình có hỏi, sau này Thầy đi rồi, ai thay Thầy dạy đạo. Lúc đó có Pháp Thao đứng cạnh bên. Ngài trả lời:

– "Thì Tạng Trình làm chủ lễ phát khăn tang."
Bà Tạng Trình thưa tiếp:

– "Không, Tạng Trình muốn biết ai thay Thầy làm đạo tiếp
." Ngài làm thinh không trả lời, Ngài thừa biết nếu bà Tạng Trình biết Ngài trao cho tôi tiếp nối mối đạo, bà sẽ làm dữ và kéo theo số chân tử thù hằn chờ sẵn, họ sẽ làm chuyện nguy hại giết tôi nên Ngài làm thinh.

Với tư thế gia đình, Ngài có viết tay trao tài sản cho bà Tạng Trình căn nhà số 6 đường Huỳnh Thúc Kháng và còn bảo nên giải tán Hội vì Ngài thừa biết bà Tạng Trình chưa bao giờ đứng vị trí Hộ Pháp trong suốt thời gian Ngài hành đạo nên khó giữ gìn và khó điều hành mối Đạo được vẹn toàn.

• Đối với các Pháp Bảo Ngài còn dạy:

– Bậc nắm Tâm Ấn thừa kế mối đạo không ở Nha Trang.

– Qui Nhơn đất Phật nhưng không có Chân Tử xuất Thánh.

– Đà Nẵng tu hành cần phải lìa bản ngã.

– Huế tu thoát khỏi nghèo đói.

– Chỉ có Sài Gòn thọ lãnh được Biệt Tôn Vô Thượng Chánh Giác.

– Sau khi Tôi đi rồi chỉ có một vị làm Đạo theo gốc, số còn lại chỉ là bầy nhầy.


Rồi Ngài trao cho Pháp Bảo London đôi Hài. Ý nghĩa đi hành đạo để thâm nhập vạn pháp. Vì đã thấy rồi mới đi hạnh nguyện khỏi vấp ngã.

Tứ chúng Hoa Kỳ Ngài ban cho một cặp kiếng đeo mắt. Ý nghĩa phải tu cho có cặp mắt thấy vạn pháp. Thấy rồi mới đi hành thâm pháp giới được.

Ngài đã chứng minh thì không có sai. Cũng tại Trung Ương Hội Thượng, Ngài khai thị: “Cái cân tiểu ly cân vàng còn sai chứ tôi đã chứng minh thì không có sai dù một phần sai số rất nhỏ cũng không có.”

Vì sao? Vì Chư Phật đã Tận Giác Tướng nên không hề có sai. Chúng sanh giải quyết một vấn đề cũng còn theo cạnh, góc, trong khi Chư Phật tận thấu vô lượng vô biên nên hóa giải, điều động vạn pháp theo vòng tròn nên kín. Tất cả sự vọ vạy của chúng sanh và hành sự của các bậc Thánh chưa hoàn mỹ nên làm gì cũng không ra khỏi vòng tròn. Do đó mà không qua được Chư Phật, không hiểu tận như Chư Phật.

“Phật đạo thừa kế Nhất Tôn nên có sự bảo tồn Tôn Thể Chứng Minh Tâm Ấn. Vì vậy trong thời Lục Tổ Huệ Năng, bậc tu hành dù có Đắc Pháp hoặc đoạt đến chân lý Tri Kiến Phật cũng phải về lễ bái thọ lãnh chứng minh mới đặng vào Chân Bản Nhất Tôn Như Lai Tạng hoàn toàn Chánh Giác.” –T.V.

Lời Ngài khai thị trong thời Hạ Lai Mạt Pháp này để nhắc nhở thời Lục Tổ dù bậc tu có đạt Tri Kiến Phật cũng phải có thừa kế chứng minh đến nay cũng theo y tôn, y chỉ rồi từ đó mới tu hành tiếp Phật Tri Kiến, từ đó mới Tương Thông Phật Lực theo mức độ tu chứng trong Cửu Phẩm Liên Hoa.

Cho nên những vị chân tử Ngài sau này có đắc pháp cũng phải được Bồ Tát thừa kế kiểm tra chứng minh mới được vào Nhất Tôn Như Lai Tạng, hoặc Tổ thừa kế thứ hai... nối tiếp mỗi thời chứng minh cho mới đặng. Chân tử Ngài, vị nào không theo đường Ngài đã vạch ra cho thời mạt pháp này đều là những vị tu ngang, tu dọc theo chí hướng quy định vẫn không được Tương Thông Phật Lực, chỉ được cái máy nói mà thôi.

“Trong thời gian qua tôi chứng minh giáo pháp là phẩm phương tiện cho tu hành, sau này có chân tử nào đắc đạo tôi chứng minh lại.”
–T.V.

• Ngài tuyên bố bải bỏ chức phẩm Giáo Pháp. Từ khi đã ban hành Hịch Bồ Tát, Ngài tuyên bố bải bỏ chức phẩm Giáo Pháp. Sau bao thử thách còn lại bốn giáo pháp, Ngài cho đem áo, mũ về Trung Ương rồi đốt sạch và bảo: “Những chân tử Pháp Tạng từ nay không được xưng danh giáo pháp.” –T.V.

• Ngài ban cho y vàng chức Tôn Giả trở lại. Ngài ban bốn xấp vải vàng cho tôi, bà Tôn Giả Pháp Tùng, ông Tôn Giả Pháp Bang, ông Tôn Giả Pháp Kiến đi may bộ y vàng chức Tôn Giả trở lại.

• Ngài bảo tôi may y, áo, mũ Bồ Tát. Sau tại Chánh Điện nhà số 6 Huỳnh Thúc Kháng, Ngài bảo tôi may y, áo, mũ Bồ Tát. Tôi tiếp nối đạo tràng, dạy đạo khi còn Ngài được ba năm đến năm 1993 Ngài nhập Bát Đại Niết Bàn, thì tôi đã điều hòa được đường tu theo vết chân Ngài cùng y tôn, y chỉ của ba đời Phật.

Cho mãi đến năm 1995, có chân tử tu đông đủ tôi mới may áo, mũ Bồ Tát do sự hành đạo mà như nhiên Như Lai đến nhắc, khiến tôi phải thực hiện theo lời khai thị của Ngài ngày xưa.

Tại số 6 đường Huỳnh Thúc Kháng, Nha Trang, một Bảo Tạng Kinh và Hịch cùng bảng chứng minh của Ngài do bà Tôn Giả Tạng Trình lưu giữ.

• Bà Chân Tử cất giữ riêng cho cá nhân. Bà Diệu Hạnh là một chân tử thường đánh máy Kinh và các bảng chứng minh do Ngài làm ra. Bà cũng hay cất giữ riêng cho cá nhân bà khi đánh máy cho Ngài. Ngài diệu dụng tuyệt mỹ nên chân tử nào cũng thỏa thích, cũng thấy tình yêu thiêng liêng cao cả nơi Ngài.

• Tổng kết các Tôn Giả còn lại. Đến năm 1975, sau bao thăng trầm, Ngài diệu dụng Tịnh Bất Tịnh, hữu tướng cùng phi tướng, tổng kết còn lại các Tôn giả:

– Bà Tôn Giả Tạng Trình.

– Bà Tôn Giả Pháp Tùng.

– Tôn Giả Pháp Bang: Ông bỏ đi sau 3 năm, nhân duyên đi tảo mộ gặp Ngài gọi về. Sau bỏ đi một năm nữa. Rồi lần cuối tức giận Ngài, đi nửa năm cho đến khi Ngài vào Bát Đại Niết Bàn thì anh em kêu gọi, ông về Trung Ương nhưng không chịu lên thăm Ngài. Anh em thúc giục mãi ông mới lên thăm Ngài lần cuối. Ngài ôn tồn bảo: “Tôi biết ông đợi tôi chết rồi mới về.” Tôn giả Pháp Bang thuyết pháp hay nhưng còn phải thành công hành sự thâm nhập pháp giới nữa. Đây là một điều thật quan trọng cho một bậc Tôn Giả. Ngài chứng minh cho Tôn Giả Pháp Bang sau này sẽ giác ngộ.

Bà Tôn Giả Tạng Trình và bà Tôn Giả Pháp Tùng đã được Ngài chứng minh sau này sẽ Liễu Ngộ, mức tu chứng sâu hơn Giác Ngộ.

– Tôn Giả Pháp Kiến chỉ nói thao thao mà mắt không thấy pháp để hành sự. Ngài bảo Pháp Kiến sau này bị ngoại lai xâm nhập ráng tu cho Tri Kiến Phật.

– Tôn Giả Tạng Thân Ngài ghi vào kinh nhưng chưa cấp phát y áo và bảng chứng minh Tôn Giả.

– Tôn Giả Pháp Hậu: Chịu đựng giỏi, qua nhiều thử thách nhưng sau Ngài hủy bỏ chức Tôn Giả.

Ngài không bao giờ quên hay thiều sót với Tứ chúng tu hành quanh Ngài. Ngài ban cho thật bình đẳng không sai chạy một pháp dù nhỏ đến đâu. Trước năm 1975 còn khoảng 10 Tôn Giả cũng được Ngài chứng minh, nhưng những vị này, sau những đợt thử thách không chịu nổi pháp nghịch đã bỏ đi nhiều năm không về, hoặc lâu lâu mới về thăm Ngài nhưng tránh né anh em trong đạo tràng. Còn hàng Giáo Pháp, Tôn Giả có nhiều vị từ năm 1975 đến năm 1993 do hoàn cảnh khó khăn trong gia đình, trong đạo tràng bất ổn, rối rắm họ đi biền biệt không biết gì diệu dụng của Ngài cho con đường Đức Trí tương song.

• Đức Ngài chứng minh sau bao biến cố vẫn còn tu tập. Đại diện hàng Tôn Giả, Hộ Pháp ở Trung Ương và các Pháp Bảo Tỉnh tu Pháp Tạng sau bao biến cố còn lại vẫn tu tập, đến năm 1993 được Đức Ngài chứng minh.

Tại Trung Ương Hội Thượng Nha Trang:

1. Bồ Tát: Pháp Khả được đổi pháp danh Di Như.
2. Hộ Pháp Bồ Tát: Tạng Bửu được đổi pháp danh Vân Đường dạy con cháu Đề Bà Đạt Đa.
3. Bà Tôn Giả Tạng Trình.
4. Bà Tôn Giả Pháp Tùng.
5. Ông Tôn Giả Pháp Bang.
6. Ông Tôn Giả Pháp Thao (chưa có chứng lệnh).
7. Bà Hộ Pháp Diệu Hòa đã được khai thông Tạng Thức.

Hàng Tôn Giả dù tu tỏ Như Tạng cũng còn phải tu cho đến mất TẠNG mới vào NHƯ. Và một số chân tử tín tâm vẫn còn tu tập tại Trung Ương nhưng không nghe Ngài khai thị chứng minh cho ai nữa vào hàng Giáo phẩm.

Chỉ có một lần khi thành Quả Phật, Ngài chứng minh cho ba người: Tôi, Tôn Giả Tạng Trình, Chân tử Diệu Hạnh sẽ thành Phật. Chúng tôi đảnh lễ tri ân Ngài, sau đó Ngài bảo tôi nghe như vầy: Diệu Hạnh căn cơ Đại cường sẽ thành Phật Giới.

Pháp Bảo Tỉnh Thị Hội Quy Nhơn:
1. Bà Hộ Pháp Tạng Hiếu.
2. Ông Hộ Pháp Pháp Quảng cần tạo đạo đức.
3. Bà Hộ Pháp Pháp Liên. Riêng Tôn Giả Pháp Kiến, Ngài ban chứng lệnh không công nhận là chân tử tín thành nữa (bảng chứng lệnh còn lưu trữ).

Pháp Bảo Tỉnh Thị Hội Đà Nẵng:
1. Bà Hộ Pháp Tạng Sinh được Ngài chứng minh sẽ Giác Ngộ.
2. Hộ Pháp Pháp Thành cần tạo trí tuệ.

Quận 3 Đà Nẵng:
1. Ông Hộ Pháp Pháp Đáo.

Pháp Bảo Tỉnh Hội Thừa Thiên, Huế:
1. Hộ Pháp Tạng Chưởng.
2. Hộ Pháp Tạng Thoàn.

Pháp Bảo Thành Phố SàiGòn:
Năm 1981, Ngài cho tôi vào Sài Gòn mở Đạo, sau đó tôi dẫn dắt một số chân tử tín tâm hạnh nguyện đã trở thành Hộ Pháp. Hàng Hộ Pháp này tinh tấn làm Phật sự trong nhiều năm, tuy ở Sàigòn nhưng hành nguyện tất cả Phật sự ở trung ương đã được Ngài khai thông Tạng Thức.
1. Bồ Tát Di Như.
2. Hộ Pháp Tạng Khiêm.
3. Hộ Pháp Tạng Thắng.
4. Hộ Pháp Tạng Thông.
5. Hộ Pháp Diệu Trâm.
6. Hộ Pháp Pháp Cẩn.
7. Hộ Pháp Pháp Trực.
8. Tạng Thành in, phát kinh sau này làm Trưởng Giả. Như vậy, ông không tu giác ngộ nổi.

Đức Ngài nhập Bát Đại Niết Bàn được 3 năm thì Tôn giả Pháp Thao và vài tín chúng tu chưa đủ tự tánh bị ma thuật dẫn dắt chạy theo bùa chú đã bị ngoại lai xâm nhập. Sau may thay Pháp Thao Trực Giác hồi hướng về lại Chánh Pháp.

Chân Tử Tạng Thanh mới vào tu, có xin tôi chụp hình Hịch Chứng Minh Vũ Trụ, Hịch Bồ Tát, Hịch Tin Vâng Kính. Tôi đồng ý cho chụp hình để nương theo Bồ Tát Hạnh tu hành. Tạng Thanh không được chứng minh, chỉ thuộc hàng Chúng Sanh Hộ Pháp mà tự xưng và làm sai trái Tôn Chỉ, rất nguy hại. Tạng Thanh rất cần tạo đạo đức.

Còn rất nhiều chân tử nữa ở Sàigòn tu hành theo Pháp Tạng nhưng không hạnh nguyện chung đường, chỉ có những vị trên đồng ứng lo hộ đạo ở Trung Ương.

Tại Thủ Đô Luân Đôn ở Vương Quốc Anh:
1. Hộ Pháp Tạng Thống.
2. Hộ Pháp Tạng Tế.
3. Hộ Pháp Pháp Vượng.
4. Hộ Pháp Pháp Hoàn.
5. Hộ Pháp Pháp Quí.
6. Hộ Pháp Pháp Trao.

Ông Tạng thống là vị Hộ Pháp tạo dựng mối đạo và nuôi dưỡng tín chúng tại Luân Đôn đầu tiên. Sau Hộ Pháp Tạng Thống được khai thông Tạng Thức, Ngài chứng minh sẽ được Giác Ngộ.

Bà Pháp Quí là một chân tử tín tâm cầu đạo đã được Ngài khai thông Tạng Thức, sau này trực giác sẽ giác ngộ.

Tại Hoa Kỳ:
1. Hộ Pháp Tạng Ảo cần tạo Đạo Đức.
2. Hộ Pháp Tạng Quảng.
3. Bà Hộ Pháp Diệu Hoàng đã được khai thông Tạng Thức.

Sau 10 năm Ngài Nhập Bát Đại Niết Bàn, một số Hộ Pháp ở Hoa Kỳ không tạo Đạo Đức, lại háo danh căn không thể hiện được tinh thần Hộ Pháp đã được xóa bỏ tên trong danh sách này.

Là Chánh Trưởng Ban Hộ Đạo Trung Ương và được thọ lãnh Hịch Bồ Tát Ma Ha Tát trước ba vị vừa Tôn Giả và tín chúng, tôi được Ngài khai thị lần lượt ghi chép lại. Chân tử Ngài gồm 3000 người, kết chung còn lại Bồ Tát, Tôn Giả, Hộ Pháp, như kể trên. Còn số đông gần 100 vị tín chúng ở các nơi vẫn tín tâm tu hành nơi các Pháp Bảo Pháp Tạng theo tổ chức.

Ngài chứng minh 36 vị Tổ nối truyền thừa kế xây dựng Chánh Pháp trường tồn 5000 năm. Cũng theo lời Ngài khai thị: Chư Tổ sau này tu chứng từ Giác ngộ đến Liễu ngộ tức A La Hán là cao nhất thuộc hàng Thánh, chớ nên xưng Phật trong khi công năng, công đức chưa đủ.

Khi đã gặp Ngài kiếp này, tất cả đều chứng kiến, sự tu hành vô cùng khó, tiến bộ từng bước một nên mai sau chớ có dùng thần thức phóng đại xưng Phật nữa. Nếu vị nào sau này có đắc pháp Vô Thượng Đẳng Chánh Giác cũng phải chờ đến bao giờ gặp Bồ Tát đã được chứng minh đắc pháp Vô Thượng kiểm tra, chứng minh cho mới vào Chân Bản Nhất Tôn Như Lai Tạng.

Ngài cũng lưu lại và ban hành Bảng chứng minh Tin Vâng Kính, các Tổ kế đời sau nên giữ gìn vì đó là y tôn, y chỉ của Đức Long Hoa Tăng Chủ hóa thân Đức Di Lạc Tôn Phật đại diện Chư Phật mười phương ba đời.

Thời Hạ lai Mạt Pháp này, Ngài chứng kiến Chư Tổ, bậc hữu học xưng Phật dẫy đầy trong khi công năng công đức chưa đến mức đó.

Quý thay lời dặn Thế Tôn
Nguyền xưa năm ấy vẫn còn nhớ đây
Thời Hạ pháp khó đắp xây
Chứng tu, tu chứng dẫy đầy khó phân.

–T.V.







Chư Tổ, bậc chân tu sau này có sở đắc một trong ba phẩm hoặc cả ba như Vô Sanh Pháp Nhẫn, Bình Đẳng Tánh Trí, Thực Tướng Vô Tướng Tam Muội Pháp Môn, những phẩm này giúp cho hành thâm pháp giới nhập Thánh, biết rõ bổn lai vạn pháp. Còn phải hạnh nguyện cho đến giác ngộ... đến liễu ngộ nữa mới trở thành vị A La Hán./-